CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI (02/11)
Việc tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời đã có từ thế kỷ IX và là sự tiếp nối truyền thống các tu viện dành một ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, một truyền thống đã có từ thế kỷ VII. Tuy nhiên, phải đến thời thánh Odilon đan viện phụ Cluny (khoảng 879-942), lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời mới được ấn định vào ngày 2 tháng 11.
Thánh Augustin từng ca ngợi tập tục cầu nguyện cho người đã qua đời, kể cả không phải ngày giỗ của họ, để không một ai bị lãng quên. Thực ra, hằng ngày Hội Thánh đều nhắc tới việc tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời và "mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV). Lễ nhớ này được phổ biến ở Rôma vào thế kỷ XIV, và đến thế kỷ XV, các tu sĩ Đaminh ở Valentia đã thiết lập truyền thống cử hành 3 thánh lễ —giống như ngày lễ Giáng Sinh— để cầu cho các tín hữu đã qua đời. Năm 1915, trong Thế Chiến I, năng quyền này đuợc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV mở rộng cho toàn thể Hội Thánh, và nghi thức thánh lễ có thêm một bản Kinh Tiền Tụng riêng lấy từ Sách Lễ Paris năm 1738. Năm 1969, các bản văn phụng vụ được canh tân để diễn tả rõ ý nghĩa Vượt Qua của sự chết. Vì thế người ta đã bỏ ca khúc Dies Irae (Ngày Thịnh Nộ).
Hiến chế Phụng vụ của Vaticanô II đòi hỏi rằng "nghi thức an táng phải diễn tả rõ ý nghĩa Vượt qua của sự chết Kitô giáo" (PV 81). Vì thế các bản văn Thánh lễ đã được canh tân để đáp ứng các chỉ thị này : bốn Kinh Tiền Tụng mới đã được thêm vào với Kinh Tiền Tụng hiện có. Các Kinh Tiền Tụng này khai triển các chủ đề sau : – 1. Sự đau buồn và hi vọng trước cái chết – 2. Chúa Kitô chết để chúng ta được sống – 3. Đức Kitô, sự sống và sống lại của chúng ta – 4. Thiên Chúa, Đấng dựng nên chúng ta, sẽ làm cho chúng ta sống lại – 5. Được Chúa Kitô cứu chuộc, chúng ta sẽ sống lại với Người.
a. Chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính : "Tôi tin xác loài người sẽ sống lại", và Sách Giáo Lý giải thích tín điều này như sau : "'Xác sống lại' có nghĩa là sau khi chết, không chỉ có linh hồn bất tử sẽ sống, mà cả thân xác chúng ta cũng sẽ sống lại." (số 989). Niềm tin này được khẳng định rõ ràng trong các lời nguyện thánh lễ, diễn tả mối tương quan giữa "sự phục sinh thân xác" với sự phục sinh của Chúa Kitô : "Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin của chúng con vào Con Chúa, Đấng đã sống lại từ cõi chết, để chúng con tràn trề hy vọng vào sự sống lại của tất cả anh em chúng con đã qua đời." (Lời Nguyện của Mẫu 1).
b. Công đồng Vaticanô II tuyên bố trong Hiến chế Lumen Gentium rằng : "Ngay từ những thời kỳ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh trong các phần tử còn lữ hành ở trần gian đã có lòng sùng mộ sâu xa đối với việc tưởng nhớ những tín hữu đã qua đời, bằng cách dâng cho họ các việc độ vong của Hội Thánh, vì việc cầu nguyện cho những người đã qua đời để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của họ, là một ý tưởng đạo đức và thánh thiện." (2 Mcb 12, 45). Vì vậy, trong Lời Nguyện trên lễ vật, chúng ta cầu xin Chúa "cho mọi người đã qua đời được đón nhận vào Nước Chúa" (Mẫu 1) và xin cho họ được xóa sạch mọi tội lỗi "nhờ máu Chúa Kitô hiến dâng" trong Thánh Thể (Mẫu 2).
c. Tính chất Vượt Qua của mầu nhiệm sự chết của các tín hữu đã qua đời được sáng tỏ trong Lời Nguyện sau hiệp lễ, khi chúng ta cầu xin Chúa mở cửa cho các anh em quá cố của chúng ta được vào ngôi nhà bình an và ánh sáng của Người "vì chúng ta dâng mầu nhiệm Vượt Qua chính là để cầu cho họ" (Mẫu 1). Cũng thế, Thánh thi Giờ Kinh Sách gợi lên ý tưởng "Đức Kitô sống lại từ cõi chết / Quả đầu mùa của những người đã an nghỉ".
d. Thánh Ambroise, trong bài giảng ngày giỗ em trai ngài là Satire, cũng nhấn mạnh ý nghĩa Vượt Qua này –bước từ sự chết sang sự sống– trong bài đọc Giờ Kinh Sách : "Đức Ki-tô là gì ? Người chính là cái chết của thân xác và là thần khí ban sự sống. Chúng ta cũng chết với Người để sống với Người... Người không thể cứu chúng ta bằng cách nào tốt hơn là cái chết của Người. Vì thế cái chết của Người ban sự sống cho tất cả chúng ta." Câu Xướng đáp tiếp sau bài đọc trích thư thánh Phaolô : "Đức Kitô đã chết và sống lại, là để làm Chúa kẻ chết và người sống". (Rm 14, 9).
ENZO LODI
(Lm hạt Xóm Chiếu dịch)
TƯỞNG NHỚ NGƯỜI QUÁ CỐ
Hằng năm vào ngày 02. tháng Mười Một, Giáo Hội Công Giáo kêu gọi các tín hữu Chúa Kitô nhớ đến cầu nguyện cho những người đã qua đời. Đây là nếp sống đạo đức và hợp với nhu cầu văn hóa lòng nhớ ơn của nhân loại. Vì có gia đình nào, có ai mà không có người thân yêu đã ra đi về đời sau ?
1. Vậy đâu là ý nghĩa tâm tình tưởng nhớ này ?
-Nhớ đến người thân yêu đã ra đi về đời sau là cung cách sống lòng biết ơn những gì họ đã làm cho ta khi trước.
-Nhớ đến người đã qúa vãng là sống lại những năm tháng ngày giờ, những biến cố kỷ niệm thăng trầm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau.
-Nhớ đến người đã khuất núi là muốn ôn lại những gì họ đã làm cùng nói viết nhắn gửi lại.
-Nhớ đến người đã vĩnh biệt ra đi về thế giới bên kia là muốn suy tư về đời sống khi xưa của họ, cùng học hỏi kinh nghiệm hữu ích cho đời sống hôm nay, nhất là về phương diện đạo đức, công bình bác ái, hướng về tương lai cải cách đổi mới cách sống.
-Nhớ đến người đã về nơi chín suối với lòng trắc ẩn thương mến, và lòng tin tưởng phó thác họ vào lòng nhân lành khoan dung của Đấng đã tạo dựng nên đời họ trong lời kinh cầu nguyện hòa lẫn với ngọn nến cháy sáng.
2. Với người Công Giáo tâm tình lòng tưởng nhớ này có nguồn gốc từ đâu ?
Từ xa xưa con người đã có tập tục tưởng nhớ đến người qúa cố. Những tín hữu Công giáo còn để lại những kinh cầu nguyện cho người quá cố từ thế kỷ thứ 02. sau Chúa giáng sinh. Thánh lễ Misa cầu nguyện cho người qúa cố là cung cách hữu hiệu nhất của việc đạo đức này. Theo giáo lý Công giáo trong mỗi Thánh lễ Misa, ơn cứu độ qua sự hy sinh chịu chết của Giêsu trên Thánh gía luôn hiện diện, cùng có gía trị mang đến cho các linh hồn được tha thứ tội lỗi khi xưa đã vấp phạm. Và nhờ thế cho họ tìm được sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.
Người Công giáo vào ngày này không chỉ dọn dẹp trang hoàng nấm mồ người qúa cố cho sạch sẽ gọn gàng, nhưng họ còn thắp ngọn nến trên đó. Ngọn nến đó là hình ảnh ánh sáng cây nến Rửa tội người qúa cố khi xưa đã lãnh nhận hằng soi chiếu trên phần mộ của cho họ.
Vào thế kỷ thứ 7. Cha dòng Isidor thành Sevilla vào ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống dâng thánh lễ Misa cầu nguyện cho những người qúa cố.
Năm 998 cha tu viện trưởng Odio của nhà Dòng thành Cluny bên Pháp đã ấn định ngày 02. tháng Mười Một hằng năm cầu cho các linh hồn trong tu viện.
Tập tục này được lan truyền rộng rãi vào thế kỷ thứ 11. Nhưng ở thành Roma mãi đến năm 1311 lễ này mới được mừng. Đức thánh cha Benedictô 14. năm 1748 cho phép dâng ba thánh lễ trong ngày này cầu nguyện cho người qua cố.
3. Trong thánh lễ Misa ngày tưởng nhớ các linh hồn :
- Xin nhớ đến linh hồn tổ tiên những bậc cha ông đã dấn thân hy sinh xây dựng quê hương đất nước từ ngàn xưa.
- Xin nhớ đến với lòng yêu mến, kính trọng và biết ơn linh hồn Ông Bà, Cha Mẹ đã sinh thành, suốt dọc đời sống âm thầm hy sinh nuôi dậy xây dựng đời sống cho thế hệ con cháu.
- Xin nhớ đến linh hồn vợ chồng con cháu, anh chị em trong gia đình đã ra đi về đời sau. Tình nghĩa con người với nhau là sợi dây vô hình luôn ghi khắc nối kết con người lại với nhau khi còn sống, cũng như lúc đã ra người thiên cổ.
- Xin nhớ đến linh hồn các nạn nhân đã hy sinh trong chiến tranh, trên đường vượt biển tỵ nạn đi tìm tự do cho con đường sống.
- Xin nhớ đến linh hồn những vị ân nhân đã sống làm ơn cho ta khi xưa. Họ là những người cúng ta biết đến, cũng như những người chúng ta không có cơ hội biết đến họ. Họ là những người đã dấn thân xả kỷ làm việc thiện, việc phúc lợi cho con người.
- Xin nhớ đến linh hồn các bạn bè, người quen biết ngày xưa đã cùng chung sống, cùng học hành làm việc với nhau.
-Xin nhớ đến linh hồn những người đã qua đời trong các Cộng đoàn chúng ta.
- Xin nhớ đến linh hồn những thầy cô giáo, những vị ân sư đã góp công khai tâm mở trí cho con người biết đọc, biết viết, biết cách suy nghĩ tìm tòi phát triển đời sống tinh thần, mà bây giờ họ đã theo quy luật thiên nhiên trở về lòng đất mẹ.
- Xin nhớ đến linh hồn những vị Giám mục, những vị Linh mục, những Nữ Tu, những Thầy Dòng đã ngày đêm âm thầm sống đời hy sinh dấn thân cho tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa trong khu vườn của Giáo Hội trên trần gian.
- Xin nhớ đến linh hồn các thai nhi đã qua đời trước khi mở mắt chào đời.
-Xin nhớ đến linh hồn những người đã qua đời mà bị rơi vào quên lãng .
************
Suy nghĩ nhớ đến hay đứng trước nấm mồ người qúa cố, câu hỏi về sự chết vang lên trong tâm trí : sự chết có ý nghĩa gì, tại sao con người đã ra đi về đời sau ?...
Steven Jobs, nhà thành lập sáng chế ra máy Vi tính Apple và sau này iPods, IPhones, IPads, qua đời hôm 05.10.2011, đã có suy tư về sự chết như sau :
" Dẫu vậy sự chết là số phận của con người, mà tất cả chúng ta cùng chung phần tham dự vào. Không ai có thể thoát khỏi số phận này được. Đó là điều hiển nhiên, vì sự chết có thể là một phát minh tìm tòi tốt đẹp nhất cho đời sống. Sự chết là vị đại diện của đời sống trong tiến trình thay đổi. Nó dọn dẹp chỗ cũ, để chỗ cho điều mới được thành hình."
Không ai biết sự chết như thế nào, ngoại trừ ra chỉ biết rằng các cơ quan trong thân thể không còn hoạt động nữa. Nhưng đức tin Công giáo nói cho chúng ta như lời Chúa Giêsu đã cho hay : " Ai nghe lời Thầy và tin vào Đấng đã sai Thầy, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước sang vào cõi sự sống" (Phúc âm Gioan 5, 24).
Phải chăng theo suy nghĩ của Steven Jobs "sự chết có thể là một phát minh tìm tòi tốt đẹp nhất cho đời sống" chính là "sự sống đời đời, là từ sự chết bước sang vào cõi sự sống" như lời Chúa Giêsu đã nói cách đây hơn hai ngàn năm ?
Với niềm tin tưởng hy vọng đó, chúng ta cùng tưởng nhớ đến những người đã qúa cố.
02.11. Lễ tưởng nhớ các Linh hồn
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Nhân Tháng các Linh hồn
TÌM HIỂU VIỆC CHÚA GIÊSU XUỐNG NGỤC TỔ TÔNG
Tháng các Linh hồn, việc chúng ta tìm hiểu để tưởng nhớ và cầu nguyện đặc biệt cho Ông Bà Tổ Tiên cũng như người thân yêu đã qua đời là điều quan trọng cần thiết mang đầy ý nghĩa. Điều đó không chỉ thực hiện nghĩa vụ báo hiếu mà còn chuẩn bị cho chúng ta nhớ đến quê hương trên Trời và cảm nghiệm được tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết, chịu mai táng trong mồ và xuống ngục tổ tông, để ban ơn cứu độ cho những người đã chết trước đó, ngay lúc đó và mãi mãi đến muôn đời.
“Đức Giêsu xuống âm phủ” là một tín điều được ghi rõ ràng trong kinh Tin kính, một tín biểu đức tin mà chúng ta vẫn thường hay đọc. Khởi đi từ mạc khải (x.1Pr 3,18tt) và được Giáo lý Hội Thánh Công giáo long trọng minh xác (số 635-636), tín điều này nói lên một ý nghĩa thâm sâu trong mầu nhiệm cứu độ, liên quan trực tiếp đến việc Đức Giêsu chịu chết, chịu mai táng trong mồ và đã phục sinh vinh hiển.
Tuy nhiên, tín điều này thường bị lãng quên; có lẽ là do sự thiếu hiểu biết hoặc là hiểu biết chưa đúng về nội dung, người ta chưa thấu đáo về tầm quan trọng cũng như ý nghĩa thần học của định tín mà Giáo Hội muốn nói ? Đây chính là tính cấp thiết, mục đích, nội dung và ý nghĩa của chủ đề mà người viết nhắm đến : thử tìm lại một cái nhìn hệ thống về tín điều “Đức Giêsu xuống âm phủ”.
Quả thế, bài viết này sẽ lần lượt tìm hiểu quan niệm chính thống của Giáo Hội về “ngục tổ tông”, lịch sử phát triển vấn đề, xác định đây là một định tín bắt nguồn từ Mạc Khải và ý nghĩa thần học rồi kết thúc trong niềm hy vọng lớn lao về ơn cứu độ.
I. Khái quát về âm phủ hay ngục tổ tông
Là Kitô hữu, đã rất nhiều lần chúng ta đọc hay ít là nghe người khác nói về “âm phủ” hay “ngục tổ tông” : trong kinh tin kính, trong nhiều đoạn Thánh Kinh hay trong giáo lý phổ thông hoặc một lần nào đó trong bài giảng của một linh mục mà vô tình ta nghe được. Tuy nhiên, hiểu khái niệm đó ra sao, nó được biết đến và duy trì trong niềm tin của Giáo Hội như thế nào lại là điều không dễ và mấy ai biết được ?
1. Khái niệm
Cụm từ “xuống ngục tổ tông” được dịch từ kinh Tin kính bản Latinh là “descendit ad inferos” mà đúng ra phải dịch là “xuống âm phủ”. Thuật ngữ “inferi” hay “infers” trong câu kinh Tin kính trên đây được dịch từ Sheol của Do Thái hay Hades của Hy Lạp có nghĩa là “nơi ở của người chết” hay là “âm phủ”, “âm ty” chứ không có nghĩa là hoả ngục, địa ngục hay là tình trạng bị luận phạt giống như một số người quan niệm. Do đó có thể định nghĩa ngục tổ tông hay âm phủ là chỗ an nghỉ của những người đã chết. Trước khi Đấng Cứu Thế đến, mọi người chết, lành hay dữ đều phải vào đó. Ở đó, họ không được nhìn thấy Thiên Chúa và chờ đợi Đấng Cứu Thế. Số phận của họ không giống y hệt nhau, như Đức Giêsu đã cho thấy trong ví dụ về Lazarô nơi cung lòng Abraham (x.Lc 16,22-26) [1].
Đây là một thuật ngữ rất khó hiểu mà khi tìm đọc các sách chú giải, chúng ta nhận thấy hầu hết các tác giả đều quy chiếu nguồn gốc sự khẳng định Chúa Kitô xuống ngục tổ tông được lấy từ đoạn thư thứ nhất của thánh Phêrô 3, 18-20, rằng “… thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ thần khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm…”. Theo đó, phát xuất từ quan niệm của Cựu ước, thuật ngữ Sheol được người Do thái hiểu là “nhà hội ngộ của hết mọi nhân sinh” (G 30, 33), nơi tất thảy chư sinh đều phải xuống (x.Ed 31, 14) để mà cảm nếm cảnh bất lực, thất vọng vì “bị Thiên Chúa lãng quên” (x.Tv 6,6; 38,6; 88, 6-9…). Các nền văn hoá vùng Địa Trung Hải ngày xưa cũng quan niệm như vậy.
Rõ ràng là người Do Thái và ngay cả Kitô giáo trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài đã phân định vị trí rõ ràng cho thế giới, nào là thiên đàng, hoả ngục, luyện ngục, lâm-bô… để rồi “tìm địa chỉ” cho từng người sau khi chết tuỳ thuộc vào tình trạng cuộc sống của họ. Quan niệm này đã trở nên lỗi thời khi người ta đọc và giải thích Kinh Thánh không quá lệ thuộc vào ý nghĩa văn tự nữa. Điều đó cũng phù hợp với sự tiến bộ về nhận thức của con người trong tương quan với khoa học và vũ trụ. Chúng ta sẽ trở lại với vấn đề này sau, nhưng ngay bây giờ phải khẳng định rằng các nhà thần học hiện đại không còn phân định thế giới ấy trong các giới hạn như vậy mà nhìn nhận các vấn đề thiên đàng, hoả ngục như là những trạng thái hạnh phúc và đau khổ của con người sau khi chết [2].
2. Tiến trình phát triển của định chế này
Trước hết, trong Giáo Hội vẫn đồng thời tồn tại hai bản tuyên tín (mà ta thường gọi là kinh Tin kính) : bản tuyên tín các Tông đồ và bản tuyên tín của Công đồng Nicée (325) – Constantinople (381). Trong bản tuyên tín các Tông đồ, tín điều Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông được khẳng định ngay từ thời Giáo hội sơ khai và được Kitô giáo trung thành gìn giữ qua các thế hệ [3]. Còn trong truyền thống Giáo Hội, định chế này lại được nhắc đến khá muộn, không phải trong lần họp công đồng chung đầu tiên, công đồng Nicée năm 325, mà chỉ xuất hiện trong tín biểu thế kỷ thứ V, công đồng Cachédoine năm 450, khi công đồng này chấp nhận và hoàn chỉnh bản tuyên tín của công đồng Nicée –Constantinople [4].
Từ đó, tín điều Đức Giêsu xuống ngục tổ tông mặc nhiên coi như được Giáo Hội thừa nhận và thuộc về nội dung của đức tin Kitô giáo. Công đồng chung Laterano IV chấp nhận chung kết vào năm 1215, và công đồng Lyon II trong bản tuyên xưng đức tin của Michele Paleologo năm 1274 đã tái khẳng định lại.
Tuy nhiên, bản kinh Tin kính chúng ta đọc trong thánh lễ hiện nay lại không còn công thức “Đức Giêsu xuống ngục tổ tông” này nữa [5]. Nhưng giáo lý Hội Thánh Công giáo vẫn long trọng xác định việc “Đức Giêsu xuống ngục tổ tông”, từ số 631 đến số 637 [6]. Phải chăng là có gì khúc mắc trong sự khác biệt này ? Liệu có phải là thần học hiện đại đã có cái nhìn mới về tín điều này chăng ?
II. Đức Giêsu xuống ngục tổ tông
Có rất nhiều ý kiến khác nhau khi bàn luận về tín khoản Đức Giêsu xuống ngục tổ tông. Tuy nhiên, vì tính phức tạp của vấn đề mà các nhà thần học đều thống nhất “…chỉ có thể hiểu được tín khoản Đức Giêsu xuống ngục tổ tông khi chúng ta đặt nó trong tương quan với các Chân Lý Đức Tin khác, tức là nại đến một vũ trụ học, một nhân loại học, một cứu độ học … và một cánh chung học. Đồng thời giải thích tín khoản đó thông qua việc đào sâu ý nghĩa nhiệm mầu của nó”. [7].
1. Một tín điều mạc khải
Ngay từ phần mở đầu, chúng ta đã khẳng định tín khoản này có nền tảng vững chắc từ Kinh Thánh, đã được tiên báo từ thời Cựu ước và hiện thực hoá trong thời Tân ước. Quả thế, chúng ta sẽ chỉ dẫn các gợi ý của Cựu ước và minh xác của Tân ước, đồng thời xem xét đến quan điểm của Huấn quyền cũng như các giáo phụ và một số nhà thần học hiện đại về định chế này.
Trước hết, Kinh Thánh Cựu ước đã nhiều lần, qua nhiều thời đại nói đến tình trạng “ngục tổ tông”, một tình trạng mọi người sau khi chết đều thuộc về đó (như đã nói ở mục I) mà tự sức con người bất lực và chỉ cậy trông sự giải thoát của Đấng cứu độ. Isaia viết “Nơi âm phủ chẳng ngợi khen Ngài được và sự chết chẳng tôn vinh Ngài được, những kẻ đã xuống mồ rồi chẳng còn trông cậy vào lòng Chúa tín trung” (Is 38,18). Tác giả Thánh vịnh cũng viết “Chốn tử vong ai nào nhớ Chúa, nơi âm phủ ai ngợi khen Ngài ?” (Tv 6,6) hoặc “Chúa được lợi gì khi con phải chết, được ích chi nếu con phải xuống mồ ? Nắm tro tàn làm sao ca tụng Chúa, và tuyên dương lòng thành tín của Ngài ?” (Tv 30, 10). Từ đó, một ánh sáng loé lên, một niềm hy vọng dâng trào và một lời tiên báo khai mở. “Cho kẻ chết mà Chúa sẽ làm phép lạ sao ? Những kẻ qua đời sẽ chỗi dậy để ca ngợi Chúa ? Sự nhân từ Chúa sẽ được truyền rao trong mồ mả sao ? hoặc sự thành tín Chúa được giảng trong vực sâu ư ? Các kỳ công Chúa sẽ được biết trong nơi tối tăm sao ? Và sự công chính của Chúa sẽ được rõ trong xứ bị bỏ quên ư ?” (Tv 88, 10-12) [8].
Đó là những những quan niệm của người Do Thái về thế giới sau khi chết, chúng ta phải nhớ rằng toàn thể vấn đề này cần phải được suy nghĩ, không phải là về địa ngục như có khi chúng ta hiểu lầm từ ấy, nhưng là việc Chúa Kitô đã đến với những kẻ chết trong thế giới âm u tối tăm của họ, để cứu thoát họ ra khỏi đó.
Thứ đến, Kinh Thánh Tân ước mới là nền tảng cho tín khoản chúng ta đang nói tới. Giáo lý về việc Đức Giêsu Kitô xuống âm phủ trong tín biểu đức tin được đặt nền tảng trên hai mệnh đề trong thư thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ : “Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm”(1Pr 3,19) và “quả thật, chính vì thế mà Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết, để tuy bị phán xét về phần xác theo cách nhìn của loài người, họ được sống về phần hồn theo ý định của Thiên Chúa” (1Pr 4,6).
Nhiều đoạn khác trong Tân ước cũng đã trực tiếp hay gián tiếp nói đến tín khoản đó. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã nói : “Đức Giêsu đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới đất, Đấng đã xuống cũng là Đấng đã lên và dẫn theo một đám tù” (Ep 4,9-10). Hay là trong Công vụ tông đồ 3,15; hay Rm 8,11; hoặc 1Cr 15,20… cũng nói việc Đức Giêsu “chỗi dậy từ cõi chết”, tức là trước khi sống lại, Người đã ở nơi kẻ chết (x.Dt 3,20).
Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 635 cũng đã nêu lại các quan điểm của Kinh Thánh để khẳng định “Đức Giêsu xuống âm phủ để kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và ai nghe thì được sống (Ga 5,25). Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn sự sống (Cv 3,15). Đã nhờ cái chết của người, tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sự chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ (Dt 2,14-15)”.
2. Quan điểm của một số Giáo phụ và thần học gia hiện đại
Truyền thống thần học xa xưa của Giáo Hội cho rằng những người chết không thực sự được hưởng hạnh phúc Thiên đàng khi Đức Giêsu Kitô chưa thực hiện chương trình cứu chuộc. Một tác giả ở thế kỷ thứ V, Domatius viết “Trước khi Chúa Giêsu chịu nạn, mọi linh hồn các thánh bị giam cầm trong hoả ngục do món nợ của Ađam, cho tới khi được giải thoát khỏi ách nô lệ, do quyền lực của Chúa, nhờ cái chết vô tội của người trên thánh giá” [9].
Từ lâu lắm, Justin tử đạo đã từng đặt nghi vấn và đi đến kết luận : “Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, nhớ lại kẻ chết của Ngài đang ngủ trong lòng đất và xuống với họ để nói cho họ biết về Phúc Âm cứu rỗi” [10].
Thánh Grégerio Cả đã không ngần ngại quả quyết việc Đấng Cứu Thế đích thân xuống tận phòng giam của hoả ngục để giải cứu các linh hồn công chính về nơi an nghỉ. “Vì từ khi Đấng Tạo Hoá và cứu chuộc chúng ta đã vào trong các phòng giam của hoả ngục, đưa linh hồn những người được Thiên Chúa chọn ra, Người không để chúng ta đi vào nơi mà Người đã xuống để giải cứu những người ở đó. Nhưng những ai đã sinh ra trước khi Chúa đến, dù họ công chính đến đâu, khi ra khỏi xác họ cũng không thể nào được đón nhận tức khắc vào trong lòng quê hương Thiên Quốc. Bởi vì Đấng ấy chưa đến, Đấng sẽ phá các phòng giam của hoả ngục khi xuống đó và đưa những linh hồn công chính vào nơi an nghĩ vĩnh cửu” [11].
Thánh Thomas Aquino trong bộ tổng luận thần học cũng có cùng một lập luận. Theo ngài, linh hồn của những người công chính trước Chúa Cứu Thế đến trần gian đều ở trong bóng tối của sự vắng bóng Thiên Chúa. Chỉ khi Đức Kitô hoàn tất công trình cứu độ, xuống âm phủ giải cứu các vong linh ở đó, đập tan bóng đêm sự chết và đem ánh sáng cho gian trần thì họ mới được lên Thiên đàng [12].
Nhìn chung, từ thế kỷ thứ XIII về trước, dưới nhãn quan phân chia thế giới thành các “vùng” trần gian, thiên đàng, hoả ngục… nên khi giải thích tín điều xuống âm phủ cũng mang màu sắc đó. Như đã đề cập ở mục I, các thần học gia hiện đại không còn nhìn nhận như vậy nữa vì nó gợi lên trong tâm trí nhiều người thời hiện đại hình ảnh lỗi thời về trời, đất, địa ngục. Nhất là khi ngành khảo cổ học, sinh vật học và thiên văn học có nhiều phát minh mới, làm thay đổi những nhãn quan của thời trung và cổ đại về thế giới. Do đó, chúng ta có những cách hiểu tín điều xuống ngục tổ tông theo tinh thần của thần học hiện đại khởi từ ánh sáng của Công đồng Vatican II.
Hồng y Ratzinger cho rằng : “Khi chúng ta nói Đức Giêsu xuống ngục tổ tông là chúng ta đụng đến một ý nghĩa mang tính mầu nhiệm. Chúa Giêsu trở nên tăm tối trong sự chết như chúng ta chiêm ngưỡng những đêm giá lạnh trong nấm mồ. Ở đó chỉ có sự thinh lặng thăm thẳm, sự thinh lặng của mạc khải” và ngài còn nói thêm “Sự thinh lặng khôn dò, sự thinh lặng không hiểu nỗi và không thể hiểu được. Một khía cạnh của mầu nhiệm cứu chuộc vượt quá sự hiểu biết của con người” [13].
Nhà chú giải Kinh Thánh Wlliam Barclay cũng chung một nhận định như vậy, rằng khi giải thích đoạn thư của Phaolô về việc Đức Giêsu xuống âm phủ, ông nói “chúng ta đang gặp một trong những đoạn khó hiểu nhất của Kinh Thánh và nếu muốn hiểu phần nào, không còn cách khác là thắt lưng tâm trí tìm biết ý nghĩa của nó” [14]. Xin được thêm vào đây rằng sự phức tạp và khó hiểu của tín khoản này làm cho nhiều người khi đọc kinh tin kính đã nói câu “Ngài đã xuống ngục tổ tông” hoặc là vô nghĩa hoặc là gây bối rối hoang mang, nên đã ngầm đồng ý với nhau bỏ qua hay quên phắt đi. Và chúng ta, đã đến lúc phải nghiêm túc tìm hiểu những ý nghĩa đích thực sâu xa mà Giáo hội gửi gắm trong đó.
3. Ý nghĩa đích thực của tín điều này
Như đã nói ở trên, chúng ta chỉ có thể hiểu ý nghĩa của thành ngữ “xuống âm phủ” nếu biết xét nó trong tương quan duy nhất và toàn thể của mầu nhiệm phục sinh, tức nối liền với những thành ngữ đi trước và sau : “Chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” [15]. Trong sự thống nhất này, tín khoản Đức Giêsu xuống ngục tổ tông chứa đựng ba chân lý quan trọng căn bản sau :
Thứ nhất, Đức Giêsu không chỉ nếm trải sự chết mà còn uống cạn chén của sự chết. Nghĩa là Ngài đã có chết, chết thật. Sự chết của Ngài không phải là một màn nguỵ tạo trong một vở tuồng. Sự chết đó không thể được giải thích bằng sự ngất đi trên thập giá hay bất cứ điều gì tương tự mà giới y khoa thường nêu ra; nhưng Ngài đã thực sự trải qua sự chết và đã sống lại hiển vinh. Mầu Nhiệm Phục Sinh thật lớn lao và ý nghĩa!
Thứ hai, ơn cứu độ mà Đức Giêsu mang lại có ý nghĩa phổ quát cho hết mọi người, ở mọi thời đại. Mầu nhiệm nhập thể đã từng cho thấy, Người đã xuống, đã tự huỷ mình lĩnh lấy thân phận tôi đòi (x.Pl 2,4-7). Vậy, việc xuống ngục tổ tông là điểm đánh dấu độ sâu thẳm vô cùng của sự tự huỷ ấy, hầu cứu chuộc nhân loại khỏi hư mất. Đây là một nội dung mạc khải về tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại. Méliton, một giám mục thành Sardes vào thế kỷ thứ hai đã đặt vào miệng Đức Giêsu những lời : “Chính Tôi đã tiêu diệt sự chết và đã chiến thắng kẻ thù. Tôi đã vào âm phủ, đã trói hung thần dưới đó lại và đã dẫn người ta lên trời”.
Về mặt thần học, khó có thể lý giải cách thức mà Đức Giêsu đã xuống âm phủ như thế nào, linh hồn Người tách ra khỏi xác rồi xuống ngục tổ tông ? Hay chính “hồng ân cứu độ” được ban tặng cho các linh hồn trong âm phủ ngay khi Ngài hoàn tất chương trình cứu chuộc ? hoặc là cách thức khác ? Giáo Hội không quả quyết điều đó mà chỉ khẳng định chắc chắn rằng tín điều Đức Giêsu xuống âm phủ đã làm rung chuyển vương quốc của sự chết, của tội lỗi và của quyền lực sa tan; đến nỗi, giờ đây, khi nghe danh thánh Giêsu, mọi gối đều phải bái quỳ, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ (x.Pl 2,10); đồng thời khơi nguồn sự sống và sống dồi dào cho nhân loại (x.Cv 3,15).
Thứ ba, Chúa Giêsu đã xuống âm phủ và rao giảng Tin Mừng ở đó thì không có chỗ hiểm hóc nào trong vũ trụ này mà sứ điệp về ân sủng đã không được rao giảng. Điều này chứa đựng lời giải đáp cho vấn nạn mà Kitô giáo đặt ra : Số phận của những người đã sống trước Chúa Giêsu đến thế gian và những người chưa hề được nghe giảng Phúc Âm ? Giáo lý về việc Chúa Giêsu xuống âm phủ bảo vệ được chân lý quý báu là không hề có một người nào từng sống mà lại bị Chúa Kitô bỏ quên không nhìn tới và không được đề nghị ban cho ơn cứu rỗi của Thiên Chúa [16].
Đây chính là những nội dung và cũng là những ý nghĩa mà Giáo lý Hội Thánh Công giáo không ngừng khẳng định trước những khó khăn vốn có của thời đại “Tin Mừng được loan báo cho kẻ chết… và từ nay, Đức Giêsu Kitô phục sinh nắm giữ chìa khoá sự chết và âm phủ” (GLCG số 634-635).
4. Niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta
Những khó khăn trong việc giải thích tín khoản này không làm cho chúng ta quên rằng tình yêu của Thiên Chúa vượt thắng và làm sáng tỏ hết tất cả, đã được mạc khải dứt khoát và trọn vẹn trong Đức Kitô, ngay cả trong những lúc và ở những nơi mà con người chúng ta hoàn toàn bó tay. Mầu nhiệm phục sinh tạo thành một thất bại thường trực và liên lỉ cho những mãnh lực tối tăm, tháo gỡ gông cùm tội lỗi cho nhân loại. Đó là hy vọng lớn lao cho hết mọi người, còn sống cũng như đã chết.
Tín điều Đức Kitô xuống ngục tổ tông, nhìn trong bối cảnh mầu nhiệm phục sinh, hàm chứa một sự thật đầy an ủi cho chúng ta. Nó giúp chúng ta hiểu rằng vực sâu sự chết, vốn hằng mở ra trước mắt chúng ta, một vực sâu tăm tối và đầy bí ẩn, cũng không quá vô tận và bất khả dò thấu nhờ việc Chúa Kitô xuống âm phủ, mầm mống của sự sống lại tái sinh, ánh sáng lại dọi chiếu vào đêm tối mịt mù.
Như thế, khởi từ Thánh Kinh, tín biểu các Tông đồ đã xác định việc Đức Kitô xuống ngục tổ tông như một hệ quả tất yếu từ cái chết của Người. Đây là một cách dùng hình ảnh nói lên ý nghĩa Chúa Giêsu chết là một sự thật hiển nhiên, vì Người đã đi đến nơi mọi người đúng lẽ cư ngụ sau khi đã qua đời. Truyền thống Cựu ước gọi nơi đó là cỏi âm ty, tức thế giới cỏi chết. Khi nói Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông hàm ý nói Người chỉ thật sự phục sinh sau khi đã chết thật. Sự phục sinh trở nên ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, đã qua đời cũng như còn sống.
Công đồng Vatican II trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, viết : "Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại, và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết... đồng thời, còn cho con người có khả năng hiệp thông với những người anh chị em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô và làm cho chúng ta hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực trong Thiên Chúa." (MV số 18b).
Còn thánh Phaolô Tông đồ đã xác quyết đầy hy vọng trong thư gửi tín hữu Thesalonica :"Vì nếu chúng ta tin rằng, Đức Kitô đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an nghĩ trong Đức Kitô, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Kitô. Dựa vào lời Chúa, chúng tôi nói với anh chị em điều nầy là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu; vì khi lệnh ban ra, khi tiếng Tổng Lãnh Thiên Thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên, rồi đến chúng ta là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi". (1Tx 4, 14-16).
Tóm lại, trong Tháng Các Linh hồn, việc chúng ta tìm hiểu để tưởng nhớ và cầu nguyện đặc biệt cho ông bà tổ tiên và người thân yêu đã qua đời là điều quan trọng cần thiết mang đầy ý nghĩa. Điều đó cũng chuẩn bị cho chúng ta nhớ đến hương trên Trời và cảm nghiệm được tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa, Đấng đã chịu đau khổ, chịu chết, chịu mai táng trong mồ và xuống ngục tổ tông, để ban sự sống cho những người đã chết trước đó, ngay lúc đó và mãi mãi đến muôn đời. Alleluia.
------------------------------------
Chú thích :
Chú thích :
[1]. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Nxb Tôn giáo, năm 2010, trang 203.
[2]. La foi de l’Église, Catéchesme pour adultes publié par la Confèrance Episcopal Allemende, Cerf, 1985, p 190-191
[3]. Xem DS 16, 27tt, 76.
[4]. http ://gpbanmethuot.vn/content/ Sau khi chết, Đức Giêsu đi đâu ?/Lm Phan Long, ofm/ngày 04/02/2011.
[5]. Sách Lễ Rôma của Hội đồng phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam , năm 1992, trang 426.
[6]. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Nxb Tôn giáo, năm 2010, trang 202-205.
[7]. Lm GB. Nguyễn Khắc Bá, Giáo trình Kitô học và Thần học về Chúa Ba Ngôi, ĐCV Vinh Thanh năm 2009, trang 306.
[8]. William Barclay, Bộ chú giải Thánh Kinh, các thư của Phêrô và Giacôbê, Nxb Tôn giáo, năm 2008, trang 182.
[9]. Trích theo http ://gpbanmethuot.vn/content/Sau khi chết, Đức Giêsu đi đâu ?/Lm Phan Long, ofm/ngày 04/02/2011.
[10]. William Barclay, Bộ chú giải Thánh Kinh, các thư của Phêrô và Giacôbê, Nxb Tôn giáo, năm 2008, trang 186-187.
[11]. Maral, quyển XIII, mục 43, số 48.
[12]. Thomas Aquino, Tổng luận thần học, p.IIIa, q.XLIX, art 5.
[13]. http ://vietcatholic.net/News/giải đáp thắc mắc/Lm Théophilé, Chúa Giêsu đi xuống hoả ngục hay ngục tổ tông ?/ngày 22/4/2009.
[14]. William Barclay, Bộ chú giải Thánh Kinh, các thư của Phêrô và Giacôbê, Nxb Tôn giáo, năm 2008, trang 181-182.
[15]. Toà Giám Mục Xã Đoài, Sách Kinh Địa phận Vinh, năm 2003, trang 12.
[16]. Dựa theo William Barclay, Bộ chú giải Thánh Kinh, các thư của Phêrô và Giacôbê, Nxb Tôn giáo, năm 2008, trang 186.
ĐCV Vinh Thanh, 30/10/2011
Tân Lập
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét