CHÚA
NHẬT I MÙA CHAY, NĂM B
Lời Chúa : St 9,8-15 ; 1Pr 3,18-22
; Mc 1,12-15
"Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa.Người ở trong hoang
địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên
sứ hầu hạ Người".
Cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín,
chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy. Cám dỗ giả
mù trước sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân. Cám dỗ
sống một đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con người là chiến
đấu và chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm, con
người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lĩnh của Đức Giêsu để chiến thắng
sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu
nguyện...
-----------------------------------------
23 bài Suy niệm, Giảng lễ và Chú giải Lời Chúa
MỤC LỤC
-----------------------------------------------------------
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang
dã, kể lại câu chuyện như sau : Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm.
Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức
dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia,
sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong
quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông
với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô
gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc
đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng
rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung,
vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh
hoang dã mà chúng ta đang sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn
Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu
đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm
ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ,
của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang
sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới
hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con
người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành
động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người
mỗi năm ? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số
đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa
của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt
phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng
hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm
chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không ?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách
của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì
thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu
nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong
thế giới ngày hôm nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy
sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng
chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy
sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt
dọc cuộc đời chúng ta.
2. Suy niệm của Camille Gagnon
TA YÊU CÁC NGƯƠI TỪ LÂU RỒI, HÃY TRỞ
THÀNH DÂN CỦA TA
Mùa Chay, một thời gian yêu mến.
Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ
mặt mùa chay hơi buồn bã, nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro
không phải là một ngày hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và
sự mỏng dòn của chúng ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều
bấp bênh ; chúng ta có một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị,
thậm chí phản bội nữa. Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu
trước hoặc sau ngày thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại
càng ham thích ca ngợi chúc mừng nó ! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay
bằng lễ thánh Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được
đề tài và sự năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này : “Ta yêu các
ngươi từ lâu rồi”.
Đúng vậy ! Mùa chay là thời gian để nghe
nói về tình yêu. Một mùa chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý
nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi
miệng Đức Giavê để khơi lại tình yêu của dân Ngài : “Ôi ! Ta sẽ dẫn ngươi vào
nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp
cho mùa chay sao : “Ta sẽ quyến rũ ngươi ?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở
thành nơi chúng ta như một bài ru con được nhiều người biết đến : “Ta đã yêu
con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên con”.
Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc
lại với chúng ta điều đó bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói
với chúng ta hôm nay Tin Mừng này : chúng ta là dân của Ngài.
Hãy
trở thành dân của Ta. Gần
đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm tự hào lớn đến độ
làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại xem : Một xứ sở,
một dân tộc là những gì ; Có những quyền được nhìn nhận và được bảo vệ và có
thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào ; Nhu cầu cảm thấy được
liên kết với những người khác mạnh làm sao ; Được chia sẻ cùng một cuộc sống xã
hội gây phấn khởi dường nào.
Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy
nghĩ lại về quốc tịch “Thiên quốc”của chúng ta : Chúng ta là một dân tộc thánh,
là công dân nước trời, dân của Thiên Chúa.
Dân
tộc của giao ước. Nền
tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung với nhau, tuân
theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những thỏa thuận của
các thành phần xã hội.
Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu
vồng vào thời gọi là của Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của
chúng ta với lịch sử của Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng
ta. Lịch sử Thánh Kinh tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong
một quốc gia. Nó đặt nền tảng cho dân Chúa : “Này đây Ta ký kết một giao ước
với các ngươi, với hết thảy con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…”
Trong những lời này, có một hiệp đồng, một giao ước.
Nghĩa
vụ công dân. Thiên
Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi hỏi sự tương hỗ. Hai
bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu ký vào bản hiệp
ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng : Phép rửa là một sự cam kết
chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta hãy nghe ngài
nói : “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ bên ngoài, nhưng
là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta hãy hiểu rõ ý
nghĩa của những từ quan trọng này : Cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm
ngay thẳng.
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào
hoang địa.
Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau
khi chịu phép rửa Chúa Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ
Ngài. Ta có thể thấy rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào
sa mạc để bày tỏ tình yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của
Chúa Cha chứ không phải bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc
mùa chay của mình, Ngài đã nói : “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin
Mừng”.
Vào đầu mùa Chay này, chúng ta hãy xác
tín rằng chúng ta là dân Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta.
3. Tầm quan trọng của một phản ứng tốt
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Điều mà trong ngôn ngữ thông thường
chúng ta gọi là “cám dỗ” thực ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại
rất phức tạp. Vì tính cách phức tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng
Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách
thức thông thường để hiểu sự cám dỗ :
- cái gợi lên lòng ước muốn ;
- động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi
cuốn vào một hành động ;
- phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những
nết xấu của một người nào ;
- xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích
thích các thú vui xác thịt, hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu
nguỵ trang với những bề ngoài của sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào
đó).
Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn
luôn sẵn sàng thức dậy. Tội nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục
vọng đó, thành thử các dục vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng
như những việc tốt. Khi một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó
là một sự cám dỗ. Nhưng đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến
khi nào nó vào hẳn bên trong chúng ta ? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một
con người song vẫn không làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu : “Nước
đổ đầu vịt” là thế. Trái lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có
thể khuấy rối hay gây ra một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng
đó người ta cho là chưa hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến
sự ưng thuận tất nhiên dẫn đến tội rồi.
Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy
tư về sự cám dỗ của Chúa Giêsu ?
Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn
biết sự cám dỗ. Người ở trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho
ma quỷ đề nghị với nhân tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng
kiêu ngạo, tính xác thịt và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự
quyến rũ nào vào sự tội không ? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt
buộc ta trả lời ngay là không. Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những
cái thường làm cho các dục vọng của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ
vàng ròng của sự thánh thiện Người vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng
ta tan chảy như chì và nhất là Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế
nào ?
Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản
ứng khi bị bỏng, nghĩa là bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn
cãi với sự cám dỗ. Người đã nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi,
không tranh luận. Đó là bài học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa
từ câu chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để
nhận ra và đẩy lùi cơn cám dỗ ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi
mình một ý chí tích cực trung thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng
bản năng và phản ứng, tại sao vậy ? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu
hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con
Thiên Chúa. Người chống cự lại sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên
Chúa. Người phản ứng lại như thế, vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu
chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng,
chúng ta phải chống cự lại cơn cám dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu
chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn
cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này
không có nghĩa là chúng ta được ơn không thể bị sa ngã, trái lại là khác, song
qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng những danh từ nào, chúng ta phải dùng
để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ còn lại cho chúng ta việc chính yếu
phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa, chuyện không chiều theo chước cám dỗ
tất nhiên sẽ đến
Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên
Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng
gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của
sự yếu đuối của chính chúng ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ
kéo đến, chúng ta hãy kêu xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh
để chống lại sự dữ.
4. Sống là chiến đấu
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một
buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ :
-
Hôm nay con đã làm gì ?
-
Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con
không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng
phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con
cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
-
Con nói gì thế ? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong
tu viện này ?
-
Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con,
con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu
xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để
chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của
con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con,
con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ.
Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương.
Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục
không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì
sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go
nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù
ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời
trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu
và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công
khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương
tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc
để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi
giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì
không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo
theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa
mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã
trước thử thách : bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa,
muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày
đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía
Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép,
danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương
quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh
ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui,
nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám
dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và
thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến
thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe
Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu
đã chứng tỏ : con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan,
nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp
nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì
cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật
chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để
làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng
không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là
Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi
vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa
mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người
gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý
nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết : “Thiên Chúa phán : Ta sẽ dẫn người yêu
của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống
gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy
bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan.
Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ
có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng
ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt
thòi lắm ! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy !
Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa
chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam
khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta
hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ
sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện
tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với
Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã nói : “Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân
Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh
luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám
phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi
mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa
Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở
nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa
không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói : “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức
Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót,
cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi
người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người
đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với
tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người
nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta
trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ :
Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương”
5. Vào
hoang địa
(TGM
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những
trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1.
Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các
đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện
viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên
mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều
thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập
luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình
huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý.
Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh
thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt
qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu.
Chiến đấu với ba thù : ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu,
ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu
phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà
không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối
thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức
là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc
chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên
nhiên. Người sống trong
hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ,
đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm.
Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người,
chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa,
dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào
Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã
nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô
lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt
qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm
ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái
lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ
được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc
chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma
quỷ. Thiên Chúa cho
phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã
bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách,
mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành
với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn
cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ
của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã
sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức
Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm
độc nhất của ma quỷ.
Cuộc
chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để
tìm thánh ý Chúa Cha.
Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức
Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào
con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con
đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng
trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử
thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc
thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn
thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa
thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn
thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp
được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp
mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý
Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa
Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng
sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi
là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy
vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh
cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng
ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào
hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu
thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ
vật chất.
Vào
hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ
đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào
hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa,
sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào
hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ
Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu
dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt
mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ
đưa tới ; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả
; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
Kiểm điểm đời sống :
1.
Bạn có quen chấp nhận những điều khó
chịu không ?
2.
Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa ? Bạn đã
chống trả thế nào ?
3.
Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để
thêm lòng mến Chúa yêu người ?
4. Bạn
có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không ?
6. Vào hoang địa
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy niệm :
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại
mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến
nơi đó, ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để
lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu
nguyện. Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con
đường Ngài phải đi, và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa
và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới
lớp áo mới. Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi
những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái
xấu. Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc
hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn
ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho
người ta nhiều chọn lựa. Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn một
loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa
của tôi : áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư
luận... Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như
những cánh của mở của căn nhà trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió
lùa vào nhà. Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ
lớn lao. Thắng được những đam mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh
hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm
tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không
ngừng, vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều
ngược lại để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con
người khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên
lụy. Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được
yên thân. Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con
người là chiến đấu và chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm
trung tâm, con người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của
Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng
ta cần ăn chay và cầu nguyện.
Gợi ý chia sẻ :
- Khoa
học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy
khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất ?
-
Không những phải chống lại cơn cám dỗ,
mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý
bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu ? Với ai ?
Cầu nguyện :
Như đoá sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình
ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ
khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám
ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt
qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí
sức lực vào những chuyện tình cảm chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như
đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết.
7. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin Mừng
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm
và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có
việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước
ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi
lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương
nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối
kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng,
"Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi
được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên
của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống
này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều
bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay
là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời
sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ
thì quyến rũ ta về lối khác ; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định
lệ thuộc vào ta hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ
quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn
mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi
khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt
theo đuổi Ngài. "Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh ? Ta có
thể làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói !" Sau những ngày một mình trong
hoang địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ
để mọi người chú ý ? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không
bị thương tổn ? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào,
khi ấy Ta hết cô đơn !" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý
tưởng về công cuộc truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng
dũng sĩ như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai ? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu
có. Ta có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa !" Những quyền
lực hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc
mà thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn : một là cố tự bảo vệ cho
đến khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám
hiểm sa mạc đã viết : "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có
thể sống sót qua sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua
hoang mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của
ma quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho
ta biết "Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền
thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm
sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện
tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân
lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá
Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan ! Vì có lời Thánh Kinh
đã viết : Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình
Ngài" (Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao
và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm
hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo
cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết
nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn
lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống,
nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với
chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng
ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan,
vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi
quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối
tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta ; chỉ có một
con đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe
tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm
hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan
trọng cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe
tiếng Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm,
nỗi trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết
chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình
ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng
chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống ; và nó
là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé
trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên
Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu ? Tôi
cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài
và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu ? Hãy tránh xa ta đồ quỉ
dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ
tôn thờ một mình Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm
kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta,
nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống ; song đúng hơn là
một tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là
chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương
lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là
cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không
chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ
chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến
thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm
gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công
chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
8. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa
(Suy
niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa
Chay đã 'nói trúng tim đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn
thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung
tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những
việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng
để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp
tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ
thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ
hằng ngày... Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ
thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì
muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì
trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta
đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa
Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta
tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh
nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân
thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành
trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần
chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta
thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp
chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng
ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự
dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ
giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan
trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những
lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều
khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số
những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc
chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói
tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã
có một phương thuốc hữu ích rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng
những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm
tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ
đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc... ?
Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên
lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta
với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta
phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin
đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin
tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta
tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi
phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của
tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay
đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm
thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là
thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa
Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói
"không " với bản thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả
những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
9. Tin là chấp nhận đường thập giá
(Noel
Quesson)
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin
Mừng”
Vào
đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời
và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu
là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ
anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo
: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc
sống".
Lòng
căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như
điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ
cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy
nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi
giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận : Kể
từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là
chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù
và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu
và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu
trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ
thấy vô lý khó chịu : “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá
đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động
trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá,
muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể”
là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường,
là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng
đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ : “Người Do Thái đòi
phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế
chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân
ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá,
nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta
đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để
biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất.
đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô
hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
10. Nơi hoang địa
(GM
Arthur Tonne)
Richar
Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một
thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái
lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố
gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất
vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn
ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn
với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và
bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình.
Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết
Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne -
O’neil viết vào năm 1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được
trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời
sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta
rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40
ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ
mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật
thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa
chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống
trong một nơi “hoang dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức
con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại -
sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào
giết hại hàng triệu người mỗi năm ? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ
hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể
xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu
của chúng ta nữa ; Xin kể một vài con thú xấu xa đó : người quảng cáo ma tuý,
người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình
truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ
tàn phá thể xác và tâm hồn này sao ? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều
sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến
thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa,
chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện
xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế,
thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú
tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay.
Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày
nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã
chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ
trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
11. Cát bụi tuyệt vời
(Lm
Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa
Chay lại về, tôi thích nghe bài ca "Cát Bụi" :
Hạt bụi nào hoá kiếp thân
tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt
trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân
tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài,
tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con
người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá
úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi, hạt
bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi, hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát
bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế : Thiên Chúa dùng bùn
đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và
con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi (x St 1,26-3,24)
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ
là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh,sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với
thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của
sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc
sống.Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời :
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi ?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn ?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng
ta ?
Một vòng quay,một trăm năm, một kiếp
người có là mấy ! "Chợt một chiều tóc trắng như vôi", không phải là
trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Cha
Nguyễn Hồng Giáo đã nhận định : Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên
điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người ; cuộc đời đẹp
biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như "đoá hoa vô
thường". Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để
có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về
với sự thật của thân phận con người "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro,một
mai rồi sẽ trở về bụi tro...". Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng : cuộc
đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi
người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở
sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo.Nhưng người Kitô Hữu thì không,vĩnh
cữu được gieo mầm trong hiện tại,đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời
người chỉ có một lần, được - mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay
nhắc cho chúng ta đừng quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết
của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối. Thánh Phaolô
đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma "Điều tôi muốn làm thì tôi lại
không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm... Sự thiện tôi
muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm...Tôi khám
phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện
ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi
thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác : luật này chiến đấu chống lại luật của
lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi...tôi thật là một người khốn nạn. Ai
sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này ?" (Rm 7,15.19.21-24).
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của
mình,về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải
thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán
cải và ơn cứu độ.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với
Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi,mênh mông, đó người ta mất hết mọi
điểm tựa, không còn chi để "chia trí,lo ra", chẳng hạn như ngoại cảnh
ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội ; chỉ còn Ta với Ta và
buộc Ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về
đó Ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng
mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt
bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay
mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự
thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào
trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính - cái phụ, đâu là cái
cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo
Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo
mọi lời mời mọc cám dỗ, mà đó là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu
bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan
tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến
thắng. Người Kitô Hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng.
“Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ,anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm
trời" (Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song
đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được
ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh
bất công, một mối quan hệ tội lỗi.... Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào, nhưng
đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết
mình tự thân chỉ là cát bụi,nhưng là "cát bụi tuyệt vời ". Nó vẫn tuyệt
vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều " lá úa trên cao rụng đầy
", chứ không phải chỉ tuyệt vời khi "vươn hình hài lớn dậy " mà
thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng
"Hạt bụi" là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và
chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát,
đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng,nhưng cuối cùng sự sống, chân
lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản
lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân ; luôn luôn
cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc
Chúa ban.
12. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ - Lm Trần Ngà)
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó
sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và
nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho
máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao
được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con
dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ
phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông
đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều
đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng
máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và
nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói : con người là con vật phải
đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống
(rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của
tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các
cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những
con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược,
bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa
dòng nước lũ hung tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi
dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa
không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc
thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó
đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng : "thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên
Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta,
"Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta'
(Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong
thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi
ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm
bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không
bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và
luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa
Giêsu
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế
ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng
mạnh đến đâu, nhưng một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì
cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê
và dục vọng xấu xa đen tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm
riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo
sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận
thù, ghen ghét, kiêu căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở
thích của cá ; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp
"khẩu vị" của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng
ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu
mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát
tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối
đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những
đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết ; và
cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm
giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với
chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao
giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi
làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến
công vẻ vang như Chúa.
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin
kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị
nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương
tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì ?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có
hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi
dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở
dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào
đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài.
Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ,
người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt
đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm
lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ
thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục
cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng
chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít
khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ
sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng
ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng
ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu
có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu
nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho
biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành
dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá
muộn : Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không
bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ
chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ
cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế
tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào
vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia
đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi,
thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu,
chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài
quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm
phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải
vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi
dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy
nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám
dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp
lặt vặt, như tục ngữ đã bảo : Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái
trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi
nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ
quay phản bội cùng Chúa.
14. Hoang địa
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang
địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là
một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì ?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là
nơi thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường
trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong
thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để
chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã
chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang
địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến
thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt
chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn
năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha
Huvelin như sau : Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con
người từ sa mạc trở về và nói : Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã.
Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời
của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu
rằng có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là
chỉ sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc
còn là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa
mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ
diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban
cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ
khỏi hiểm họa rắn độc… Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được
tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang
địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay
tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng
và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời
chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng
đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào
sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được
nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của
cuộc đời.
15. Cuộc chiến
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố
là “Con yêu quý” thì “Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ
Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng ! Tại sao
đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay ? Phải chăng
vì nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu ? Có lẽ đó là một lý do
nhưng còn có những ý nghĩa khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế,
trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài
thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát
khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ
đe dọa những người lữ khách. Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ
thống trị được biểu tượng qua các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù
của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ
lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa : Chúa
Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến
đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm
thương trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam
trong vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức
là kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ,
chiến thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi
đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa
Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian
này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương
đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào ? Chúng ta có vượt qua thử thách như
Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa ? Chúng ta có đủ sức mạnh
để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và
trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không ?
Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và
thói quen xấu của chúng ta như thế nào ?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có
thể xác định được căn tính của tôi chưa ? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ
chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không ?
Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con
đường bạo lực của mình ? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp
Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa
Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa ? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở
cho chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của
chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức
là những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên
Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta
trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy
nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như
Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự
Thiên Chúa và tha nhân.
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường
được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là
ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ
ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày
lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng
bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần
chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng
được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như
tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản,
kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên
thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau
nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để
nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ ? Nhưng ngày nay người ta còn
ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không ? Thi
sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói : “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục
được con người rằng chúng không hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong
ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám
mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay
con người có thể tìm ra nguyên nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự
hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay
ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy
nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác
động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội
lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người
: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì
tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người
vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay
phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào ? Ma
quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã.
Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính
tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít
khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi
không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn
chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng
ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội
kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ
khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa
ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma
quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau : ma quỷ khôn khéo như một
phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy
mà anh ta đã thoát thân được bằng một cách rất tài tình : mỗi ngày anh nhổ hai
sợi tóc và xe lại với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài,
anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất
nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi
dây gai lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây
thừng lớn, bằng sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được.
Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của
chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế
chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung,
tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám
dỗ ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm
thứ hai sau xác thịt của chúng ta : thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ
thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta
phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không ?
Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là
chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh
các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những
vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta
phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ,
trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu
chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức
đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng
hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ
khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa
Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin
cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta
phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
17. Suy niệm của JKN
Đức Giêsu chịu cám dỗ
trước
khi công khai rao giảng Tin Mừng
Câu hỏi gợi ý :
1. Tại
sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy
Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho
Ngài hoặc cho ai không ? Mục đích của Thánh Thần là gì ?
2. Bị
cám dỗ là điều tốt hay xấu ? Cám dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên
thánh của ta không ? Tại sao ? Trước mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề
phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì
tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không ?
3. Không
nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức
của mình hay của một ai không ? Tại sao ?
4. Cám
dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để “được”
cám dỗ không ? Tại sao ?
Suy tư gợi ý :
1.
Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc
sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật
vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân,
tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta
không được thử thách ? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm
sao ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là
nguyên chất hay bị pha tạp ? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào ? Để
biết rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan
trọng, giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử
bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác
nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng
những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản
thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã
qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ
đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc
thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần
thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần
Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày”
trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất
yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi
người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và
cứu chuộc nhân loại.
2.
Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng
ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện
tại hay “con người cũ” – vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ
đó, ta mới quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22 ; x. Cl
3,9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng
rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy
nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ
nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa
mình, để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn
mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình
tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức,
thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội.
Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta
thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay
không hề cư xử bất công với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa,
nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh
nào : “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói
như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không
thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt : “Các môn đệ bỏ
Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết
với Thầy mình nhất thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt
26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của
ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để
lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly
nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối
có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có
cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết
được ly nào là trong thật sự ? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được
ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt ?
3.
Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết : “Ví phỏng đường
đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi
người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử
chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa
hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính
trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta : “Friend in
need, friend indeed” (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ
khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức
hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản
ứng của ta thế nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một
cách bất công : lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ ? hay ta bình tĩnh
xét xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp
nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất ?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể
phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta : lúc đó ta quyết dành quyền lợi
ấy về cho mình ? hay biết nhường cho bạn ? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó
có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái
xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng
yêu thương nhau không ? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự
không nếu không có miếng xương để thử ?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn
đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều : lúc đó
ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh ? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy
cho người khác ?
– khi đứng trước những bất công trước
mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu
lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở : lúc đó ta
sẽ coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta ? hay
ngược lại ?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta
bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao
nồi cơm của những gia đình khác : lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia
đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình ? hay ngược lại ?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với
ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ
ta một việc khá khó khăn : lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở
như nhau ? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt ?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành
thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự
vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ
là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám
dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp
những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn
những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách
của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên
khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình
trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh
lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì
tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo
Hội, v.v… Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa
từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của
mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất
cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự
tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa
các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào
vi thượng sách” là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và
cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô : “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng
kẻo ngã” (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của
ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại.
Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp
ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị
trí nào trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện :
Lạy
Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện
lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút,
con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản
lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm
thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
18. Hãy cải thiện và hãy tin
(Lm.
Mark Link)
Chủ đề : "Chúng ta phải nhìn
nhận tội lỗi mình, và xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó"
Piri
Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường Xấu Xa” (Down These
Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một người bị kết án
tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở thành một Kitô
hữu gương mẫu.
Một
đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình. Đột nhiên, anh
nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có
một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng giường với một tù
nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc
rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống nền bê tông lạnh
ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại : “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái
tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những lời hoa
mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những
hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc được… Đó
là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.
Sau
khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp : “Amen”. Đó là tiếng của
“thằng ròm”. Piri nói : “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên đôi tay khoanh
lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với ai. Rồi “Thằng
Ròm” nói nhỏ : “Tôi cũng tin Chúa !”. Hai người bạn trẻ nói chuyện với nhau một
lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói : “chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi
nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với
Ngài thôi”.
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp,
minh hoạ những gì Đức Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo :
“Hãy cải thiện đời sống và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm
hai điều : trước hết là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào
Phúc Âm”, chúng ta hãy bắt đầu với điểm thứ nhất : cải thiện đời sống.
“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa
là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó
là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với
tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có
nghĩa là bắt chước Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra
trong đời sống của anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện
đó.
Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh
nghiệm tương tự như Piri Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu
thỉnh thoảng làm hỗn loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính
ích kỷ khiến chúng ta đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân.
Chúng ta ý thức về tính cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai
trái của mình. Chúng ta ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ
tha nhân. “Cải thiện” nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời
sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai
trong giáo huấn của Đức Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn
yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc
biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là
làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của
anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết
rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội
lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh
hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ
nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức
Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.
Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc
Donnell đã thực hiện một cuộc thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm
dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này : Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại
rất thành công trong việc làm cho thính giả hối cải như thế ? Theo Mc Donnell,
có một điều là họ theo giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng
mình là những kẻ tội lỗi, và họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được
cứu độ. Ông nói : “Nhiều người không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận
rằng chính họ là những kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi
đâu cần đến Đức Kitô”
Mc. Donnell kết luận : “Không ai mừng
kính những mầu nhiệm của Đức Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó
không buồn rầu nhìn nhận rằng mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi
chúng ta thực hiện hai điểm quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình
là những kẻ có tội, và quay về với Đức Giêsu để được cứu độ.
Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận
xét quyết định. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào
mùa chay một cách tốt đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay
là thời gian Thiên Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện
đời sống
Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc
biệt để sống tinh thần mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là
coi mùa chay như một cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí
tích hoà giải và sự bình an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong
bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng
tội lỗi của mình và nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về
một đoạn như thư của thánh Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và
nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa của mình. Thánh Phaolô viết :
“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi
không làm những gì tôi muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì
ngay cả khi tôi muốn làm điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm
điều tốt tôi muốn làm mà lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người
vô phúc biết bao. Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này
?….. Tạ ơn Thiên Chúa… người đó là Đức Giêsu Kitô !” (Rm 7 : 15-25).
19. Yếu tố con người
Khi
mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công
cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề
lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa
phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách hành
hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm
cắp và xì ke.
Thế
rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra :
-
Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo Ấn Độ theo Công
giáo.
Trước
nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một
nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.
Viên
cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà.
Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày
không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu
này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình
vậy.
Trở
về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói :
-
Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính
thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ
hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho
người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần
kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta :
-
Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế
nào ?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay
tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi
chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em.
Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác,
vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia
đình, đó là cộng đồng nhân loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì
con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến… Bởi vì con người luôn mang trong
tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên
cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi
Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể
khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng
ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại
vừa trở về với anh em đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho
những người hấp hối cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung
thực ơn sám hối toàn diện nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng
người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ
điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.
20. Chiến thắng cám dỗ
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ
nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa
Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh
Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba
lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô,
kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết : “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa.
Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho
biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng,
thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy.
Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm
hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu
với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở
đó con người phải luôn chiến đấu : chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với
nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy ? Bởi vì mang thân
phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn
nhau : một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh
hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành
chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn
bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm
điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một
chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói :
“Tôi không hiểu nổi việc tôi làm : điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều
tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải
dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong
nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ
tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất
vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả,
không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác
rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của
ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường
mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà
Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài
quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên
Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất
thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên
môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư
hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa
lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất
nhiên có người sẽ nói : có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó
đâu ? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền
mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình
trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó
là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta : lôi kéo, xúi bẩy
chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ
sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai
thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen
hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều
về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn : một vẻ quyến rũ từ bên
ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy ; một
âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động ; một
sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình
trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ
là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ
có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước
cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng
chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta : thế gian, ma
quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ,
thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng
ý của chúng ta hay không ? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám
dỗ hay không ? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta
có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm
chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những
cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho
đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã
bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp
ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp
ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã,
đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối
ngay.
21. Tái tạo cuộc sống
Lần
kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có
một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền. Vị vua không hề
cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến lâu đài thăm
viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.
Đến
ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa đến gặp nhà vua,
anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một
biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh.
Vốn
là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng nàn, tỏ lòng
thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác.
Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường phố xin ăn trong bộ
quần áo rách nát của anh ta.
Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới ?
Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc
sống mới. Điều đó có nghĩa là anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin.
Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không
hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong
cuộc sống sẽ cần phải từ từ, gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh
quá quen thuộc với thói quen cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong
cuộc sống của chúng ta. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình,
tùy thuộc vào những thói quen đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem
lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào
đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện
trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn
vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình.
Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu
muốn mặc một cái áo mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo
mới sẽ lôi kéo theo một lối sống mới.
Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh
bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư
tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói
quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết
làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết,
thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay
đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện
luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa
chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội
lớn cho mọi người. Đó là “Mùa xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa
chay, những người dự tòng được chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái
sinh trong Đức Kitô. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là
thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ
lực tiến tới Mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì ? Nói tóm lại,
chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo
lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên
Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể
mặc cho chúng ta chiếc áo mới của sự sống.
22. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA (1,12-13) :
Khác nào một tia sáng lóe rạng, trình
thuật phép rửa vừa chấm dứt, Maccô liền cho ta thấy Chúa Giêsu tiến vào một
cảnh vực tối tăm. “Thánh Thần liền thúc đẩy Người vào hoang địa”. Chúng ta
cần nhờ chính Thánh Thần của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa lãnh nhận lại lôi kéo
Ngài vào hoang địa. Hoang địa nào ? Có lẽ là hoang địa Giuđê, nơi ông Gioan Tẩy
Giả xuất hiện (1,4). Nhưng vấn nạn chính yếu là : tại sao lại vào hoang địa ?
Hậu cảnh của việc đổi đời này ta gặp thấy trong lịch sử Israel, nhân cuộc Xuất
hành. Khi ra khỏi Ai Cập, người Do Thái tiến vào hoang địa Sinai. Và ở đó họ đã
gặp những thử thách cam go về lòng trung thành với Thiên Chúa (x. Xh 16,1-4 ;
17,1-17). Về phần mình, chết được thúc đẩy làm lại tiến trình thiêng liêng của
dân Thiên Chúa. Việc Ngài đem dìm mình trong nước sông Giođan nhắc lại cuộc dân
Israel băng qua Biển Đỏ (Xh 13,17-14,31). Được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang
địa, Chúa Giêsu gặp lại nơi đó những “cám dỗ” mà Israel xưa kia đã phải chịu
trong hoang địa Sinai. Như vậy, khác nào một Môsê mới, Chúa Giêsu hoàn tất cuộc
Xuất hành mới : nơi bản thân trung tín của Ngài đã hình thành dân mới của Thiên
Chúa.
“Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan
cám dỗ” (c.13a),
nửa câu ngắn ngủi này rất có ý nghĩa. Đúng là một nhắc nhở về việc Chúa Giêsu
cũng chịu cám dỗ như Israel xưa kia. Con số “bốn mươi” làm ta liên tưởng thời
gian người Do Thái lưu lạc trong hoang địa (Đnl 8,2). Nhất là, như Maccô nhấn
mạnh, Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ trong đó, Satan xưng danh mà Thánh Kinh (từ
thời Gióp, G 1,6) gán cho tên thù bí nhiệm, kẻ chống đối việc thiết lập Vương
Quốc Thiên Chúa. Ta sẽ thấy Chúa Giêsu đối đầu với hắn trong các vụ trừ quỷ sau
này (x.3,22-23). Ở đây, Maccô là tác giả Tin Mừng duy nhất giữ kín nội những
cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu (x.Mt 4,1-11 và Lc 4,1-13). Từ đó Maccô mời gọi độc
giả tìm coi lại những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã gặp trong suốt thời gian Ngài thi
hành sứ vụ. Ta thấy nhiều lần Ngài đã bị khuyến dụ dùng quyền năng Thiên Chúa
nơi mình để thiết lập Vương Quốc một cách huy hoàng đắc thắng (x.8,11-13.31-33
; 12,13 ; 14,38 ; 15,29-32). Trong mỗi dịp có thể biểu lộ thần tính huy hoàng
như thế, Chúa Giêsu đều tỏ ra khiêm tốn suy phục Chúa Cha. Như vậy không phải
là ngẫu nhiên khi Maccô kết thúc trình thuật ngắn ngủi này bằng cách cho ta
thấy Chúa Giêsu chiến thắng trước quyền lực của thần Dữ.
“Người sống giữa loài dã
thú…” (c.13b).
Ở một nơi đặc biệt nguy hiểm, sự gần gũi giữa con người và thú hoang nói đây
làm ta nghĩ tới cảnh thân thiện của thời đại “Mêsia” đã được Isaia mô tả : “Chó
sói ở với chiên, beo xám bên cạnh dê con, bê với sư tử được nuôi chung một
chuồng, và một em bé dẫn chúng đi chăn” (11,6).
“Và các thiên sứ hầu hạ Người” (c.
13b). Câu này muốn
nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Đấng Mêsia được coi như Con Người
mới, sống trong mối giao hảo toàn vẹn với đất trời. Câu kết này của phần nhập
đề nói lên một ngụ ý sâu xa. Ở chính nơi, tức hoang địa, mà Israel đã thất
trung với Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu, vị mục tử dân mới của Thiên Chúa sẽ trọn
vẹn trung thành.
Qua những hoạt cảnh nối tiếp nhau tuy
vắn gọn nhưng giàu ý nghĩa, toàn thể đoạn văn 1,2-13 làm ta có cảm tưởng như đó
là khúc mở màn, khi buổi hòa tấu chưa khởi sự, dàn nhạc tuần tự chơi những điệu
chính mà các nghệ sĩ độc tấu và ca đoàn sẽ lặp lại và khai triển qua suốt buổi
trình diễn. Lời mở đầu này giống như một “bản liệt kê các chủ đề” của toàn bộ
cuốn Tin Mừng. Nốt chủ âm đã được xướng lên. Buổi trình diễn có thể bắt đầu.
TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA (1,14-15) :
Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”
: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra các trình thuật
tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của
Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.
Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm
(c.14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa
Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như
vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa
Giêsu từ hoang địa Giuđa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy
ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền Bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu
sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó,
“Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba
đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải
qua lại nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do
Thái và dân ngoại. Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một
trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên
người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh : phía bắc có
Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây
giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu,
Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong
Isaia đã ứng nghiệm : “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời,
trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).
Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu
khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu
độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các
độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó
là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8).
Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng
Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu
độ trần gian” (Ga 4,42).
Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu
đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ
thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ
đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian
đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu
: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa
đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày
ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và
việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi
này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7 ; So 3,15b ; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu,
Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt
12,28b).
Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp
của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán
cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát
tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi
cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong
lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm
nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần
phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần
đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở
Ephêsô : “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và
tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).
Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây
Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa
Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa
Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của
lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả.
23. Chú giải của Fiches Dominicales
SAU KHI CHỊU THỬ THÁCH VÀ CHIẾN THẮNG,
ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO Ở
GALILÊ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1)
Thần Khí đẩy Người vào hoang địa
Mỗi năm cứ đến Chúa nhật thứ I Mùa Chay
chúng ta lại đọc tường thuật về cuộc Cám dỗ của Đức Giêsu. Matthêu và Luca
trình bày giai thoại này như một cuộc đọ sức mà hai bên dùng lời Cựu ước để
tranh thắng bại, giữa Đức Giêsu và Tên Cám Dỗ. Còn về phần Máccô, ông đã khôn
khéo tóm lược trong hai câu, vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ.
Đức Giêsu vừa đến xin Gioan Tẩy Giả làm
phép rửa ở sông Giođan. Ở đó Người đã được thánh hiến để làm Đấng Mêsia Vua và
làm người Tôi Tớ của Thiên Chúa. "Đây là Con Ta yêu dấu”, tiếng từ đám mây
đã tuyên phán như vậy, "trong Người, Ta được hài lòng”. Là Môsê mới, Người
đã băng qua nước thuộc về một cuộc xuất hành mới. Người được giao trọng trách
tụ họp một dân mới để dẫn họ về đất hứa ; Người đã nhận lãnh Thần Khí là quyền
năng của Thiên Chúa để chu toàn trọng trách đã nhận.
Máccô viết tiếp : Chính Thánh Thần liền
đẩy Người vào hoang địa.
+ "Liền" : Còn cách nào nhấn mạnh mối tương quan
giữa phép rửa và cuộc thử thách hơn thế ? Nào ta có thể cảnh báo những ai đã
chịu thanh tẩy hoặc những dự tòng đang chuẩn bị để lãnh bí tích này một cách rõ
ràng hơn, rằng họ đừng ngạc nhiên khi họ phải đương đầu với thử thách ?
+ "Thần Khí đẩy Người vào hoang
địa", nếu dịch
nguyên văn thì phải viết : "ném người vào hoang địa”, giống như dân Israel
thuở xưa, khi được lôi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã bị ném ra ngoài, bị xua
đuổi đi (Xh 6,1 ; 11,1 ; 12,33).
Tại sao lại vào "sa mạc" ? -
Thưa bởi vì theo truyền thống Kinh Thánh, hoang địa nơi thử thách cũng là nơi
con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ, nơi khởi đầu mọi sự ; nơi
thiết lập Giao ước.
J. Potin viết : "Đối với người Do
Thái thì hoang địa là nơi thử thách ròng rã 40 năm dài. Dân Israel lâm vào một
cuộc chiến không ngừng là chọn giữa Thiên Chúa thật, Đấng vừa cứu họ khỏi ách
nô lệ và tự mạc khải ở núi Sinai, với bên kia là những tà thần, nào là của Ai
Cập, nào là của những dân ở Canaan, những thần mà lúc nào họ cũng muốn chạy
theo. Đức Giêsu không thoát khỏi cuộc thử thách này. Thử thách bắt buộc người,
Vị được chọn của Thiên Chúa, phải lựa chọn một lần dứt khoát, cái lựa chọn sẽ
dẫn Người đến con đường thảm kịch. Trong hoang địa, cái đói cái khát làm nổi
lên trước mắt những vùng sáng chói ngời, đó có thể là những ảo ảnh, mà cũng có
thể là dân Hứa. không ai có thể chọn trải qua cuộc chiến như thế, nếu không là
kẻ tự phụ. Người ta bị Thần Khí đẩy vào, như Máccô đã viết, Thần Khí sức mạnh
của Thiên Chúa từ nay được che giấu sâu kín trong ý chí và trong con tim"
("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 114).
2)
Đức Giêsu đối đầu và toàn thắng thử thách
“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày,
chịu Satan cám dỗ”,
Máccô viết tiếp.
"Bốn mươi" : đối với người am
hiểu Kinh Thánh đây là một con số mang nặng ý nghĩa : con số tượng trưng sửa
soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất suốt 40
ngày và 40 đêm, trước khi Thiên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi.
Trong 40 ngày và 40 đêm, ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận Lề luật của
Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, dân Israel được Thiên
Chúa gỡ cho khỏi ách nô lệ Ai Cập đã dong duỗi hành trình trong hoang địa trước
khi vào được Đất Hứa. Cũng trong 40 ngày và 40 đêm, ngôn sứ Êlia đã đi bộ về
núi Horép, núi của Thiên Chúa, để ở đó lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước.
Ở đây thánh ký Máccô tỏ cho ta thấy rằng
một khởi đầu mới đã khai mào. Đức Giêsu đã muốn làm lại cuộc hành trình do
chính bản thân, cuộc hành trình thiêng liêng của dân Người ; Người chiến thắng
những cám dỗ mà xưa kia dân Israel đã bị thất bại trong hoang địa, với vai trò
Môsê mới, Người đi đầu dẫn dắt dân mới về Đất Hứa.
- Trong Tin Mừng của ông, Máccô cũng
không quên nhấn mạnh cám dỗ, mà Đức Giêsu phải liên lỉ đương đầu, là dùng quyền
năng thần thiêng để áp đặt vương quốc Thiên Chúa. Ong tuy chỉ nhắc đến bằng một
câu hết sức sơ sài ; ông viết : "Người chịu Satan cám dỗ".
Rồi bằng một câu ngắn, ông công bố cuộc
khải hoàn của Đức Giêsu trên quyền lực của sự dữ :
- "Người sống giữa loài dã
thú". Đó là
một cách tuyên bố rằng Đức Giêsu khánh thành thời đại cứu thế, mà ngôn sứ Isaia
nói đến : "sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non
được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng" (Is 11,6).
+ "Và có các thiên sứ hầu hạ
Người". Một kiểu
nói của Máccô ám chỉ sự trợ giúp thần thiêng dành cho người mà trong gian nan
thử thách đã đặt hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chua. Ở trong Cựu ước - Matthêu
và Luca trong tường thuật song hành đã trich dẫn rõ ràng Thánh vịnh 90 :
"Người truyền cho thiên sứ và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vập
chân vào đá”.
J. Hervieux kết luận : Đấng Mêsia xuất
hiện như một Con Người mới, sống hoà hợp tuyệt vời với trời cao cũng như đất
thấp. Câu kết của đoạn Dẫn Nhập nay nói lên rất nhiều điều. nơi mà Israel đã tỏ
ra bất trung với Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, vị Chủ lại của dân mới, đã tỏ ra
thái độ trung thành tuyệt hảo" (L’Evangile de Marc", Centurion, trang
25).
3)
Khai mạc sứ mạng của Người ở Galilê
Thế giới mới mà Đức Giêsu vừa khai mở do
toàn thắng Satan trong cuộc thử thách nơi hoang địa, bây giờ Người công bố bằng
lời nói và bằng hành động.
Máccô nêu rõ, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng
của người. “Sau khi ông Gioan bị nộp" để nói lên sự liên tục của sứ mạng
Người với sứ mạng của Gioan.
"Người đến miền Galilê”, là quận
của dân ngoại, là miền đất cư ngụ người Do Thái pha trộn người dân ngoại, là
tỉnh bị Giêrusalem coi khinh.
Người công bố khai mạc thời đại mà những
loan báo của các tiên tri được thực hiện. Giờ đây Thiên Chúa bắt đầu hoạt động
ra tay, Vương quốc của Người đã đến gần : "Thời kỳ đã mãn và Triều đã
Thiên Chúa đã đến gần” ? Người ta cần phải thống hối ngay để đón nhận biến cố
hồng phúc này trong đức tin : "Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
BÀI ĐỌC THÊM
Một
cuộc lật ngược ngoạn mục, chỉ bằng 1 câu văn
(H.Vulliez,
trong cuốn “dieu
si proche, Năm B" Brouwer, trang 34).
Thánh ký Máccô chỉ dùng một câu văn mà
trình bày được một cuộc lật ngược ngoạn mục : một Đức Giêsu bị cám dỗ trong
hoang địa, trở thành một Đức Giêsu sáng ngời trong một vũ trụ hoà hợp và xinh
đẹp. Đó là tạo thành mà Thiên Chúa yêu quý. Một Đức Giêsu toàn thắng sự dữ,
trong một thế giới được hoà giải với chính mình và với Thiên Chúa. Ở đó ta tìm
thấy toàn bộ Kinh Thánh, toàn bộ lịch sử nhân loại, chỉ trong vài hàng chữ đầy
kỷ niệm, ta thấy nổi lên nguồn hy vọng vượt khỏi tầm mức con người.
Đức Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày chịu
sa tan cám dỗ. Thế rồi, báo trước buổi bình minh vượt qua, Người sống an hoà
với mãnh thú, và các thiên sứ từ trời xuống hầu hạ Người. Hoang địa, một vùng
đất mênh mông đầy thế lực thù nghịch. Cuộc sống luôn bị thần chết đe doạ. Đức
Giêsu là Thiên Chúa làm người đến để lật ngược tình thế : là trả lại cho Thiên
Chúa và cho vũ trụ đã ra méo mó, dung mạo của Thiên Chúa. Thần Khí bay lượn
trên miền đất khô ráo và kìa Đấng Hằng Sống chỗi dậy trong một khu vườn xanh
tươi và nở đầy bông. Bức phù điêu khắc hình Ađam đã lật sang mặt kia có hình
Đức Kitô. Địa đàng đã không bị mất phía sau mình. Mà nó đang ở phía trước,
người ta phải tìm kiếm thì mới tìm thấy, nhờ cộng tác với Đức Giêsu và nhận
Thần Khí.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, 40
ngày sa mạc để được quyến rũ và lôi kéo bởi niềm hy vọng mãnh liệt, hy vọng
rằng mọi vật trong vũ trụ sống hoà hợp trong Đức Kitô, tuy chưa hoàn tất ;
nhưng đang hoạt động rồi.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét