18 BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN (A)
Lời Chúa: 1V. 19, 9a.11-13a; Rm. 9, 1-5; Mt. 14, 22-33
Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! ". Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? " Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!
MỤC LỤC
1. Biển đời
2. Con đường của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Xin cho con đi trên mặt nước
4. An toàn trên biển cả
5. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest
6. Hãy lưu lại trên thuyền – Charles E. Miller
7. Xin cứu tôi
8. Gió trở nên yên lặng
9. Chúa đi trên biển – R. Veritas
10. Đi trên mặt biển
11. Xin cứu tôi
12. Quyền phép
13. Cam kết cho đến chết
14. Đức tin
15. Lạy Thầy, xin cứu con
16. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
17. Chú giải theo Fiches Dominicales
18. Chú giải của Noel Quesson
1. Biển đời.
Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt ngước lên trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên, cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa và nhìn xuống những ngọn sóng.
Điều này cũng thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có những lúc trong cuộc đời, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Chúa, nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành công như mỉm cười với chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên biển lặng. Trái lại cuộc đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão táp. Chính trong những giờ phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa, chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng ta bị chao đảo, mất thăng bằng và chìm xuống.
Đoạm Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Và để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của một câu danh ngôn: Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
2. Con đường của Chúa
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: "Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua" (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: "Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ" (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: "Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin" (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
3. Xin cho con đi trên mặt nước.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.
Chỉ còn một mình Đức Giêsu, cầu nguyện. Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Đấng sai Ngài. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình. Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến. Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị: "Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy."
Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói: Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng. Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: "Cứ đến."
Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu.
Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: "Đúng là Thầy rồi!"
Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con". Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.
"Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!"
Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống.
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua đoạn Tin Mừng trên đây, bạn có thấy Đức Giêsu là một nhà huấn luyện giỏi để cho các môn đệ trưởng thành hơn trong đức tin không?
Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm đi trên mặt nước. Trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm kinh khủng tương tự như thế không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
4. An toàn trên biển cả.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!
Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển, mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.
Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.
Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu. Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại, bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu việt của Thầy Giêsu.
Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu, đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.
Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh, ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: "Lạy Chúa, xin cứu con!"Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.
Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm vì "con thuyền Giáo Hội"có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an. Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn tưởng là bóng ma.
Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm... để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng định.
Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện diện.
5. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không đồng ý với phản ứng của dân chúng... Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để 'củng cố đức tin anh em', nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông. Chúng ta hãy để ý các điểm này:
1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.
2) Phải lượng định làm sao cách hành động của các môn đệ và của Phêrô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão, hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta phải thưa nhiều lần: 'Lạy Chúa con tin, nhưng xin tăng thêm đức tin cho con' sao?
3) ... tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.
6. Hãy lưu lại trên thuyền – Charles E. Miller.
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng')
Nước bao phủ hai phần ba bề mặt trái đất. Chúng ta biết rằng chúng ta không thể sống nếu không có nước, nhưng đôi khi chúng ta không thể sống với nước. Nước là một sức mạnh quyền năng và bí nhiệm mà có thể nói là sống hay chết.
Các tông đồ hiểu nước rất rõ. Họ là những người đánh cá, nên nước là chính cuộc sống của họ. Đối với họ, nước có nghĩa là sự sống. Nhưng rồi vào một đêm kia, với những ngọn gió gào thét trên họ và nước gầm rú dưới chiếc thuyền của họ, họ biết bây giờ nước có nghĩa là chết. Họ kinh ngạc xiết bao khi thấy Chúa Giêsu hướng về phía họ mà lại đi trên mặt hồ! Khi họ nhận biết rõ đó chính là Chúa Giêsu chứ không phải là ma, họ mới như trút được nỗi sợ hãi, nhưng sự bốc đồng của Phêrô chưa thoả mãn. Ông ước ao một điều gì đó hơn là những gì ông đã thấy nữa kia. Ông trông mong Chúa Giêsu hành động một cách kỳ lạ hơn nữa kia: "Ông thật sự muốn Chúa Giêsu ban quyền cho ông đi trên mặt nước".
Phêrô cầu xin: "Xin cho con đi trên nước để đến với Thầy". Ngạc nhiên Chúa Giêsu đáp: "Hãy đến". Những điều đó không thành công. Phêrô bắt đầu chìm xuống biển vì thiếu lòng tin. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn đáp ứng đòi hỏi không đúng của Phêrô vì Người muốn dạy cho ông và cho tất cả chúng ta một bài học, hãy bằng lòng với cách thế mà Chúa đã thực hiện chứ đừng đòi hỏi Người làm theo cách của ta.
Đó là một bài học ngay với tiên tri cao cả là Êlia cũng phải học. Êlia đã làm chứng cho quyền năng tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng đã đáp lời cầu nguyện của ông, đã mang lửa từ trời xuống thiêu rụi con bò tơ như một của lễ hy sinh. Điều này đã xảy ra khi những lời cầu nguyện của các tiên tri, các thần ngoại giáo đã được minh chứng là vô dụng. Nữ hoàng Giêzebel, kẻ thù không đội trời chung với Êlia, đã giận dữ vì sự thành công của vị tiên tri. Bà đã thề là bà sẽ giết ông cho kỳ được. Êlia đã chạy trốn để cứu lấy mạng sống. Chúng ta thấy ông đang trốn trong một cái hang bài đọc hôm nay. Chắc chắn ông đã hy vọng một sự tỏ hiện kỳ diệu của Thiên Chúa qua một cơn gió lớn mạnh tiếp đó là trong cơn động đất, rồi là lửa, nhưng Chúa không ngự trị trong những hiện tượng này. Nhưng Êlia đã thấy Chúa ngự trong ngọn gió nhẹ rì rào. Êlia học biết rằng chúng ta phải bằng lòng với cách thế mà con Thiên Chúa chọn để hành động.
Chúng ta có thể muốn Thiên Chúa hành động nhân danh chúng ta bằng những phương cách bất thường, như cho phép chúng ta đi trên nước mà đến với Người. Nhưng chúng ta vẫn ở lại trên thuyền, thuyền đây biểu trưng là Giáo Hội. Giáo Hội sẽ không bị chìm cho dù sóng to gió lớn đến mức nào, đó là những gương mù gương xấu trong Giáo Hội đã làm chúng ta phải bực tức. Giáo Hội sẽ không bị lật úp bởi những ngọn cuồng phong, đã đe doạ dập tắt đức tin của chúng ta và làm cho chúng ta phải cực lòng. Dù cho bất cứ điều gì khác có xảy đến, chúng ta biết rằng ở nơi con thuyền Giáo Hội chúng ta sẽ luôn luôn tìm gặp Thiên Chúa.
Trong Giáo Hội, Thiên Chúa hành động theo cách riêng của Người. Chúng ta sẽ run sợ và không nghi ngờ gì khi chúng ta thấy Thiên Chúa hiện diện trong ngọn lửa hồng xuống thiêu rụi lễ vật hy sinh và tiên tri Êlia dâng tiến nhưng cung cách của Chúa Giêsu đơn giản hơn, giống như ngọn gió thổi hiu hiu. Người chọn cách nói với chúng ta, không hề ồn ào trong ngọn cuồng phong nhưng trong âm vang của con người qua những lời trong Thánh Kinh. Người chọn cách đến với chúng ta không phải trong cơn run rẩy lúc động đất, nhưng dưới những hình thức đơn giản của bánh và rượu.
Trong mọi trường hợp, qua mọi nhu cầu của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm thấy Thiên Chúa nhưng chúng ta phải ở lại trong con thuyền, để trở nên những môn đệ trung thành trong Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
7. Xin cứu tôi.
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ sợ hãi ông đã bị chìm xuống cũng là bài học đức tin cho tất cả mọi người Kitô hữu. Khi nào không tập trung nhìn thẳng vào Chúa Giêsu mà chỉ nhìn vào những đối tượng khác, chúng ta sẽ bị khủng hoảng.
Một nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Têrêsa Calcutta đã đến than phiền với mẹ về luật lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông cảm thấy rằng nó đã cản trở việc mục vụ của ông. "Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người cùi", ông nói với Mẹ Têrêsa, "tôi muốn sống cho những người cùi". Mẹ Têrêsa nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng nói:"Thưa sư huynh, ơn gọi của sư huynh không phải là làm việc cho những người cùi, nhưng ơn gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô".
Khi nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những điểm tích cực và lạc quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa xung quanh, vào điều tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu chìm xuống.
Cha Mark Link đã dùng câu chuyện sau đây để minh họa cho điều này. Một con tàu đang gối sóng trên đại dương. Những cơn gió mạnh thổi ngược vào những cánh buồm làm chúng có thể bị rách bươm. Một chàng thủy thủ trẻ được lệnh phải trèo lên cột những cánh buồm lại. Anh chưa bao giờ trèo lên cột buồm chính vào thời tiết khắc nghiệt như vậy bao giờ. Anh bắt đầu trèo, và dường như muốn tụt xuống vì sự gầm thét của gió bão làm cho anh quá sợ hãi khi nhìn xuống. Trong kinh hoàng, anh tê cóng người lại, không thể leo lên hay tụt xuống được. Hoảng sợ anh la to:"Tôi sẽ ngã. Tôi sẽ ngã". Viên chỉ huy hét lên thật lớn trong cơn gầm thét của bão tố:"Hãy nhìn lên!Hãy nhìn lên sẽ không bị ngã!" "Người đâu mà kém tin vậy!Sao lại hoài nghi?" (Mt 14,31)
Khi vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan, tôi đã học thêm được hai từ Anh ngữ mới:"boat people and land people", người đến bằng đường biển đã được Cao Uy Liên Hiệp Quốc áp dụng chính sách tị nạn cho đi định cư dễ dàng hơn. Sau khi vượt biên bằng đường bộ sang Campuchia, tôi đã xuống tàu vượt qua Vịnh Thái Lan. Con tàu chúng tôi sử dụng chỉ là chiếc tàu chở hàng nông sản trên dòng sông Cửu Long, chứ không phải chiếc tàu đánh cá ngoài biển khơi. Nó nhỏ bé và mong manh giống như chiếc lá trôi trên mặt đại dương bao la. Vào một đêm giông bão, trời tối đen như mực, ghé tai vào mạn thuyền có thể nghe tiếng gió kêu rít bên ngoài. Con thuyền cũ kỹ và bé nhỏ cố gắng trồi lên trên những ngọn sóng cao rồi lại lao đầu xuống vực thẳm đen tối. Sóng đập vào mạn thuyền kêu răng rắc. Mọi người trong thuyền chỉ còn nhắm mắt, bịt tai và cầu xin Thiên Chúa cùng Mẹ Maria cho qua được cơn khủng khiếp này. Bây giờ nghĩ lại kinh nghiệm này, tôi có cảm nghiệm giống như Phêrô. Ở trên một chiếc thuyền mỏng manh trôi trên biển cả, có khác nào Phêrô bước đi trên nước. Một kinh nghiệm vô cùng sợ hãi nhưng cũng tràn đầy ơn phúc!Tôi đã được cứu thoát là nhờ niềm tin và ơn phúc. Nếu bây giờ lập lại biến cố này, tôi sợ rằng sẽ chìm, vì sợ hãi đã càng ngày càng lớn và niềm tin lại suy yếu dần. Tôi đã nghi ngờ giống như Phêrô. Và chắc chắn cũng sẽ chìm giống như Phêrô!Trong lúc các môn đệ cần đến Chúa Giêsu, Ngài đã đến với họ. Khi có gió ngược và cuộc đời trở nên trắc trở khó khăn, Chúa Giêsu đã ở đó để giúp đỡ. Ngay khi chúng ta cần đến Ngài, Ngài đã ở ngay đó để giải cứu chúng ta.
William Barclay chia sẻ như sau:"Trong cuộc đời gió thường thổi ngược. Có những lần khi chúng ta đi ngược gió, và cuộc đời là một sự phấn đấu tuyệt vọng với chính mình, với những hoàn cảnh, những nỗi buồn và quyết định của mình. Những lúc đó, không ai phải phấn đấu một mình, bởi Chúa Giêsu đến với họ qua những sóng gió cuộc đời, với cánh tay đưa ra để cứu vớt và với giọng truyền êm ái ra lệnh cho chúng ta phải an tâm, đừng sợ hãi". Thực ra câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước không phải là một biến cố tình cờ xảy ra cho các môn đệ. Đây là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu và quyền năng của Chúa Giêsu đối với dân Ngài khi gặp bão tố gian nguy. Tất cả chúng ta sẽ cảm nghiệm điều này nếu chúng ta kêu cầu với Ngài như Phêrô khi xưa: "Lậy Thầy, xin cứu con!".
8. Gió trở nên yên lặng.
Trong Giáo Hội cũng như trong mỗi một cuộc đời người Kitô hữu, tất cả mọi sự đều diễn ra giữa niềm tin và sự sợ hãi. Đó là Tin Mừng của việc đi trên mặt nước.
Nỗi sợ hãi. Một chiếc thuyền ở xa bờ và lênh đênh giữa sóng gió. Đêm tối. Và có một con ma nữa chứ! Một nỗi sợ hãi làm cho những người mặc dầu ghê gớm cũng phải la lên.
Tin tưởng. Đêm dần tàn và người ta nhận ra Chúa Giêsu. Ngài bước đi trên biển! Ngài nói: "Thầy đây, các con đừng sợ". Và nói với Phêrô: " Cứ đến đây".
Đây là ván bài của niềm tin và sự sợ hãi. Phêrô bắt đầu bước đi trên mặt nước. Nhưng ông sợ và chìm xuống: "Xin Thầy cứu con!" Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và nói: "Tại sao ngươi lại hoài nghi?". Đây là câu hỏi chính của bài suy niệm hôm nay. Câu trả lời sẽ là nhiệt tình tin tưởng hoàn toàn mà toàn bộ bài đọc hướng về đó: "Thầy là Con Thiên Chúa!"
Phép lạ này gây phiền nhiễu. Nó dường như vô ích (các phép lạ khác là để chữa bệnh) và theo kiểu khổ hạnh, nhưng trái lại phải thấy trong đó một bài học quan trọng đó là một phép-lạ–mạc-khải. Phép lạ này biểu thị những nỗi sợ hãi lớn lao của chúng ta và những đỉnh cao của niềm tin tưởng của chúng ta, khi chúng ta sống đức tin như là một kinh nghiệm "Thầy thật sự là Con Thiên Chúa!"
Tôi có nói về biểu tượng để ám chỉ rằng phép lạ đã không xảy ra và phép lạ chỉ là một điều giảng dạy hình tượng về niềm tin hay không? Không, những người này đã thấy rõ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước. Họ đã thấy gió lặng yên. Chúa Giêsu đã làm điều đó vì họ, để làm cho niềm tin của họ vững mạnh: "Thầy đây, các con đừng sợ!"
Giờ đây, được chúng ta đọc lại, cũng chính biến cố này làm cho chúng ta suy nghĩ về niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu. Trong cuộc sống yên ổn, tin vào Chúa Giêsu chính làTin Mừng hy vọng: chúng ta thích điều Ngài nói, chúng ta muốn làm điều Ngài yêu cầu, nhất là khi Ngài nói về yêu thương.
Bão tố, đêm đen của những đau khổ thể xác, đêm đen của những thất bại, của phản bội, của tuổi già đang đến. Tin rằng Chúa Giêsu sẽ kéo chúng ta ra khỏi những làn nước này như thế nào?
Phép lạ xưa kia có thể trở thành phép lạ cho chúng ta. Cũng chính Chúa Giêsu ở đó và nói: "Đừng sợ". Và Ngài nói: "Hãy đến đây!". Nghe và hiểu được tiếng hãy đến đây chính là cảm thấy trong ta một ngọn lửa tin tưởng giống như canxi trong các mạch máu của chúng ta. Chúng ta hỏi Ngài chúng ta có thể đi tới Ngài, đi tới sự vững vàng và an bình, và Ngài nói với chúng ta: "Hãy đến đây!". Nếu cuộc chiến chống lại sự sợ hãi rất gay go, chúng ta cảm thấy Ngài nhìn chúng ta với vẻ nghiêm khắc dịu dàng: "Kém tin thế, tại sao ngươi hoài nghi?"
Ngài nói với chúng ta và với Giáo Hội như thế. Con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Giáo Hội bị sóng gió vây bủa, nhưng Ngài hiện diện ở đó.
Khi chúng ta lắng nghe được tiếng nói này "đừng sợ", sự việc có thay đổi hay không? Không hẳn, mặc dầu điều này vẫn có thể xảy ra. Nhưng chắc chắn chúng ta thay đổi, chúng ta mang cái dường như chúng ta không thể mang được. "Thầy là Con Thiên Chúa. Có Thầy con sẽ tiến bước trên các làn nước sợ hãi và đau khổ này".
Tôi không thể đi xa hơn được, duy chỉ kẻ nào đã có kinh nghiệm về niềm tin mới biết câu "và gió trở nên lặng" có nghĩa là gì.
9. Chúa đi trên biển – R. Veritas.
Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng của nhóm bác sĩ giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là sẽ hiện diện bên cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe xong lời cha khuyên, người con trả lời cho cha:
Xin cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó thác mọi sự cho Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy sinh âm thầm trong tâm trí.
Người cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có được thái độ tin Chúa như con mình.
Chúng ta cũng thường hành xử như vậy khi gặp những thử thách xảy ra cho anh chị em xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng tự nhiên trước những thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế, những tài năng riêng của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan trọng của Chúa.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật 19 mùa thường niên năm A, trích từ Phúc Âm Thánh Mátthêu hôm nay trình bày cho chúng ta một toàn cảnh thật ý nghĩa. Ở đây chúng ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh tượng các Tông Đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có gì liên hệ với nhau; Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người đang gặp phải.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài cũng có thể bị cám dỗ có những suy nghĩ như vậy. Chúa ở đâu mà tôi không nhìn thấy Ngài đâu cả? Nhưng thật sự không phải như vậy. Thiên Chúa không vắng mặt, không rời xa con người. Các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn là vì tuân lệnh Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển cực khổ giữa ban đêm để qua bên kia bờ. Ban đêm thường có sóng to gió lớn, các Tông Đồ biết như thế, vì là những ngư phủ trong vùng.
Thông thường các ngài có thể lý luận với Chúa để ở lại với Chúa chờ qua ngày hôm sau đi lại ít nguy hiểm hơn, và cũng để được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc vì bận rộn lo cho hơn năm ngàn người ăn uống khi nghe Chúa giảng dạy. Thế nhưng lý do gì mà Chúa ra lệnh cho các Tông Đồ lên thuyền chèo qua bên kia bờ biển hồ và giữa đêm khuya như vậy?
Các Tông Đồ gặp thử thách nguy hiểm kia là vì tuân lệnh Chúa, và chúng ta thấy Chúa không để cho những người vâng phục Chúa bị thiệt hại. Phải, bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông Đồ phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai kinh nghiệm, tập thể các Tông Đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông: "Tại sao các con kém tin thế?", tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài đã chọn.
Đó là bài học cho các Tông Đồ sau này khi lãnh nhận sứ mạng chính thức sau khi Chúa phục sinh: "Thầy đã được mọi quyền năng trên trời dưới đất, chúng con hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân". Đây không phải là lời hứa suông, mà là một bảo đảm mạnh hơn mọi thứ bảo đảm do con người đặt ra trong xã hội hôm nay. Những bảo hiểm của con người sẽ vô ích nếu như không có sự bảo đảm của Thiên Chúa, dù con người không chấp nhận hay không biết đến sự bảo đảm này, hơn ai hết, sau khi đã trải qua kinh nghiệm trên biển hồ nổi sóng, các Tông Đồ sẽ xác tín hơn sau này cho sứ mạng làm chứng cho Chúa: "Không gì có thể tách rời tôi ra khỏi tình yêu Chúa".
Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa. Chúng ta hãy nhìn lại xem mình đã có kinh nghiệm sống như bài học của Phúc Âm hôm nay Chúa đã dạy các Tông Đồ chưa? Cùng với các ngài vâng lệnh Chúa vào thuyền, và sau cơn giông tố chúng ta tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa", Chúa sống với chúng ta thì chúng ta còn lo sợ chi nữa.
10. Đi trên mặt biển.
Sự kiện xảy ra qua đoạn Tin Mừng vừa nghe không có chi là khó hiểu, thế nhưng đâu là mục đích mà Chúa Giêsu định nhắm tới.
Đi trên mặt nước và làm cho sóng gió im lặng, mục đích của Chúa Giêsu là muốn làm cho các tông đồ vững tin và cậy trông ở Chúa. Thực vậy, sau phép lạ bánh hóa nhiều Ngài truyền cho các ông lên đường. Lúc bấy giờ trời đã về chiều mà nước thì lại ngược và gió đã nổi lên, các tông đồ cảm thấy nặng nề và không mấy hứng khởi. Vượt biển trong tình trạng đó sẽ không thể nào tránh khỏi vất vả và mệt nhọc. Đang lúc vật lộn với sóng gió, Chúa Giêsu thân hành hiện đến để an ủi và giúp đỡ. Trông thấy Chúa, lúc đầu các ông tưởng là ma. Nhưng Chúa đã lên tiếng để trấn an, rồi lại truyền cho sóng gió yên lặng và con thuyền yên hàn cặp bến.
Trước hết đối với Phêrô, phép lạ này có tính cách quan trọng, ông đã tỏ ra yêu mến và nhiệt thành đối với Chúa, nhưng việc xin phép lạ vô cớ đã tỏ ra ông là người hấp tấp thiếu suy xét, nhiệt thành không phải lúc khi xin phép lạ được đi trên mặt nước. Trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, ông đã nói trước và làm trước các tông đồ. Để đem lại cho ông một bài học, Chúa đã để ông lảo đảo đến sắp chìm và sau này Chúa còn để ông sa ngã... song nhờ lòng tin mạnh mẽ, trong lúc nguy cơ ông đã kêu cầu Chúa và Chúa đã giơ tay cho ông nắm lấy, rồi đưa ông lên thuyền với Ngài. Như thế, Chúa muốn bảo ông hãy tin tưởng vào Chúa và chỉ nhờ một mình Ngài, ông mới được đứng vững. Ông chỉ được cứu thoát nếu biết nắm chặt vào bàn tay Chúa.
Tiếp đến là đối với Giáo Hội. Con thuyền của các tông đồ là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội, trong đó Phêrô là người đứng đầu, vì Chúa đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phêrô... Đúng thế, Giáo Hội không khác gì một con thuyền của các tông đồ, vượt biển giữa cảnh bão táp. Có những khó khăn từ bên ngoài, khác nào những trận cuồng phong thổi ngược, đồng thời cũng có những khó khăn tự bên trong khác nào những ngọn sóng ngầm không kém phần nguy hiểm. Các tông đồ đã phải cực nhọc chèo chống, mà đôi khi còn có cảm giác chìm mất, đến nỗi phải thốt lên: "Lạy Thầy, xin hãy cứu chúng con kẻo chúng con chết mất".
Tuyệt vọng mà không mất niềm tin, trong lúc không đợi chờ, thì Chúa Giêsu đã đến, Ngài khiến sóng gió phải yên lặng và đưa con thuyền tới bến bình an. Bao giờ Chúa cũng bảo vệ Giáo Hội Ngài khỏi đắm chìm cho dù cuồng phong và sóng gió có thổi mạnh.
Và sau cùng là đối với mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là một phần tử của Giáo Hội, cũng thường gặp phải những khó khăn, những giông tố từ bên trong cũng như bên ngoài, làm cho chúng ta có cảm giác bị bỏ rơi và chìm mất. Tuy nhiên, cũng như Giáo Hội, Chúa luôn nâng đỡ và cứu giúp, miễn là chúng ta biết tin tưởng chạy đến với Ngài. Bão táp sẽ qua, cuồng phong sẽ dứt, trời quang mây tạnh sẽ trở lại và chúng ta sẽ được sống trong tình thương và sự an bình của Chúa. Trong những ngày hạnh phúc, chúng ta đã dễ dàng lãng quên Chúa và chỉ trong giờ phút đen tối, chúng ta mới nhớ đến Ngài, đó là dấu chỉ của một đức tin thiếu trưởng thành, mang nặng tính chất vị kỷ và cầu an. Chính vì thế mà hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại vấn đề niềm tin của chúng ta đối với Chúa hiện giờ như thế nào? Đức tin chân chính sẽ giúp chúng ta nhận ra dấu chỉ của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, trong sáng cũng như đen tối, vui sướng cũng như đau khổ để rồi chúng ta sẽ xử sự đúng với tinh thần Phúc Âm.
Bởi vì, trong giây phút này, chúng ta hãy thành tâm kêu lên: "Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho chúng con..."
11. Xin cứu tôi.
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến Capharnaum, nơi Chúa Giêsu khởi sự đời sống mục vụ công khai và trải qua nhiều biến cố quan trọng ở đây. Thị trấn nằm trên bờ biển Galilêa. Vào một đêm trăng, hai vợ chồng bước đi dọc theo bờ biển và quyết định mướn một chiếc thuyền chèo ra biển hóng gió. Mark Twain hỏi một người đàn ông đang ngồi trên thuyền phải trả bao nhiêu tiền để đưa họ ra biển. Mark Twain thường mặc bộ com-plê trắng, giầy trắng và đội mũ cao bồi rộng vành của người Texas. Với phong cách và kiểu ăn mặc như vậy, người chủ thuyền nghĩ Mark Twain phải là một người Mỹ giàu sang nên ra giá 25 đôla cho một chuyến du thuyền. Nghe vậy, Mark Twain đành cám ơn ông chủ thuyền rồi bỏ đi. Đi được vài bước ông quay sang nói với vợ: "Bây giờ tôi mới biết tại sao Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước!" Có phải ý ông muốn nói vì đi thuyền đắt quá, Chúa Giêsu không có tiền, nên phải bước đi trên mặt nước không?
Mark Twain đã nghĩ ra một cách cắt nghĩa khôi hài về phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay. Một sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của câu chuyện Chúa Giêsu bước đi trên biển, ắt phải nói về con người Chúa Giêsu là ai, về Giáo Hội và về đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước biển, kết hợp với câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc Âm tuần trước, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài có quyền hành trên tất cả mọi sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên.
Người Do Thái tin tưởng rằng biển cả thuộc lãnh vực của các quyền lực ma quỉ siêu nhiên, chẳng hạn bọn quỉ nhập vào bầy heo, rồi lao xuống biển (Mt 8,32). Một trận cuồng phong bão tố ở biển khơi được coi là công việc của những thần thù nghịch. Bằng việc bước đi trên những ngọn sóng thần hung dữ và làm yên lặng biển động, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng có quyền lực và hoàn toàn làm chủ trên những sức mạnh thù nghịch này.
Rất nhiều người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần, ma quỉ, và có khi lại còn tin vào bùa ngải nữa. Phúc Âm hôm nay mang lại cho chúng ta một niềm tin tưởng rằng những quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa Giêsu đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta.
Con tàu trên đại dương là một trong những biểu tượng của Giáo Hội mà những người Kitô hữu tiên khởi đã sử dụng để ám chỉ cuộc hành trình đức tin trên trần gian. Giống như con tàu nghiêng ngả trên sóng nước, Giáo Hội cũng bị tấn công từ mọi phía bởi những quyền lực trần gian như thánh Augustinô đã nói: "Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa". Ở giữa những khủng hoảng, Chúa Giêsu đến mang lại sự bình an và hòa khí êm dịu trong Giáo Hội. Thế nhưng, Ngài lại đến dưới một hình thức và cách thế làm nhiều người Kitô hữu sợ hãi và la lên: "Ma kìa!" Họ muốn Ngài tránh xa khỏi họ. Nếu biết lắng nghe, trong bão tố chúng ta sẽ nhận ra tiếng Ngài thì thầm trong gió: "Hãy an tâm. Thầy đây, đừng sợ!" Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Ngài hứa, sự hiện diện của Ngài sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết.
12. Quyền phép.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết điều trên: Chúa đi trên mặt biển nổi sóng và gió yên lặng ngay khi có lệnh của Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài. Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Matthêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống. Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ", các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: "Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?". Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa".
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học: Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì là phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp họ. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: Ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba, thánh Phêrô thấy Chúa đi trên sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ông lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến chốn. Nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế: đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
13. Cam kết cho đến chết.
"Đấng Cứu Thế? -- Ai Cần Đấng Cứu Thế?" chính là tựa đề của một chương trong cuốn "Những Dụ Ngôn của Peanuts". Chương bao gồm những mảnh hoạt họa mà trong đó Linus và Lucy đang theo dõi một em bé đang bò trên sàn nhà. "Mày nghĩ coi còn bao lâu nữa thì Sally mới biết đi?" Linus hỏi. "Lạy Chúa tôi!" Lucy nói, "vội vàng làm gì? Cứ để nó bò vòng vòng một thời gian nữa! Đừng thúc nó làm gì! Nó còn có nhiều ngày giờ mà." Lucy ngừng để suy tư trong giây lát. Rồi cô nói: "Một khi mà mày đứng dậy, và khởi đầu bước đi, thì mày đã phải cam kết cho đến chết!"
Hành động trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay khởi đầu liền ngay sau khi Chúa Giêsu đã nuôi 5 ngàn ăn no nê qua phép lạ hóa mấy chiếc bánh và mấy con cá ra nhiều. Giờ đây, Chúa Giêsu nói các môn đệ hãy xuống thuyền trước Ngài sang bên kia bờ hồ Galilê. Thế nhưng sóng gió nổi lên trong khi họ vượt hồ. Rồi họ thấy một hình bóng đang đi trên mặt nước. Đấy chính là Chúa Giêsu, đang tiến đến để giúp họ. Các môn đệ thì đang khiếp sợ. Mặc dầu họ mới được chứng kiến "Phép Lạ của Bánh và Cá" của Chúa Giêsu, đức tin chưa hoàn toàn cam kết và ngay cả trí óc nhỏ nhen hẹp hòi sẽ không thừa nhận trình trạng có thể rằng Chúa Giêsu có thể làm được việc này. Đi trên mặt nước? Họ nói: "Ma đấy!" và họ "hoảng hốt la lên." Ngay cả sau khi Chúa Giêsu trấn tĩnh sự sợ hãi của họ, thế mà đức tin của Phêrô vẫn còn quá nhỏ nhen. Chúa Giêsu ra lệnh cho ông đi trên mặt nước. "Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống đi trên mặt nước mà đến với Chúa Giêsu", Matthêu nói với chúng ta. Thế nhưng ngay khi ông cảm thấy sóng gió nổi lên, ông đã run sợ và cảm thấy mình bị chìm xuống. "Thầy ơi, xin hãy cứu con," ông la lên (Mt 14, 30). Ông bị chìm xuống bởi vì ông từ chối tin rằng Chúa Giêsu có quyền tạo dựng các kinh nghiệm ngoại thường này trong cuộc sống của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô thôi "bò quanh" với đức tin của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô đứng dậy trong đức tin, và tập đi. Chúa Giêsu muốn Phêrô hoàn toàn cam kết với Ngài, trong đức tin, cho đến chết!
Có nhiều lúc khi mà nỗ lực của bạn để làm việc đúng, làm tốt bất kể việc gì mà bạn được kêu gọi để thi hành, dù khó khăn và thất vọng như là đi trên mặt nước: cố là người cha hay người mẹ tốt; cố làm cho cha mẹ hiểu mình; cố không giữ lòng thù hằn; cố loại trừ đi những tập tục xấu; cố không uống miếng rượu đầu tiên đấy hay hút điếu thuốc đầu tiên đấy; cố tiếp tục kiêng cữ ăn uống cần thiết; cố chấm dứt sự cô đơn và buồn rầu sau khi mất đi người thân yêu. Đấy giống như cố đi trên mặt nước vậy. Bạn cảm thấy không có gì vững chắc dưới chân cả. Bạn có cảm giác khủng khiếp như bị hút vào hố sâu đen tối.
Phêrô đã cảm nghiệm cảm giác này trong khi ông đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Phêrô đã để chính ông bị chìm vào vực sâu bởi vì ông đã mất lòng tin. Khi mọi sự dường như hợp với ý hướng của ta, và khi gánh nhẹ nhàng, thì Hành Vi Đức Tin chính là lúc dễ dàng nhất. Thế nhưng khi sự thể bắt đầu đi ngược ý ta, khi gánh trở nên nặng nề, và chúng ta cảm thấy tinh thần sa sút, thì Hành Vi Đức Tin đi đến chỗ khó khăn nhất. Các môn đệ đã học biết thực thi những công tác dường như bất khả mà Thiên Chúa trao cho họ để thực hành, dưới ánh sáng Đức Tin. Họ phải học biết rằng họ không bao giờ cô đơn lẻ loi, không bao giờ bị ruồng bỏ, dù tình thế khủng khiếp cảm thấy đến đâu, dù cái chết vì chính Chúa Giêsu đã chết cho ta.
Có những người nói với ta rằng thật vô ý nghĩa khi nói về cái chết của Chúa Giêsu. Có phải sự sống của Ngài mới là quan trọng đấy sao? Nó chả có nghĩa lý gì bao lâu chúng ta nhận thức rằng chính trong sự chết, trong Cuộc Đóng Đinh, tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta được tỏ rõ nhất, mạnh liệt nhất, nồng nhiệt nhất, và trực tiếp nhất. Đấy chính là vì sao Thập Giá trở nên trung tâm cho Đức Tin Kitô Giáo từ ngay lúc khởi đầu. Đấy chính là tột đỉnh của mọi sự mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm để mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Có một người đàn ông bị lôi cuốn bởi Phúc Âm Chúa Giêsu và ông đã đi Nhà Thờ trong vòng vài tháng nay. Khi ông được hỏi là tại sao ông chưa tiến bước nữa để chịu phép Rửa Tội, ông nói rằng toàn bộ kinh nghiệm đi Nhà Thờ cũng giống như lên tàu lửa và hỏi ông tài xế: "Bao nhiêu tiền?" Và ông tài xế trả lời: "Cuộc sống của ông." "Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi cảm thấy run sợ và tôi đã trốn cho đến giờ." Chúa Giêsu kêu mời chúng ta lên xe và tiến vào sứ mệnh mục vụ của người Kitô hữu đã chịu phép Thánh Tẩy.
Trong đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu và Phêrô lên thuyền và gió bão liền ngừng. Chúa Giêsu làm lặng biển cả. Các môn đệ phủ phục trước Ngài, và tuyên xưng, "Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).
14. Đức tin.
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không. Chú trả lời: "Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người".
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước Anh.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, "bị sóng đánh vì ngược gió".
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ".
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin "đi trên mặt nước mà đến với Thầy". Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với".
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?".
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu "cứ đến", mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: "Thưa Ngài, xin cứu con với".
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là "Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay". Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên trong các cơn giông tố của cuộc đời: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa".
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác tín như thánh Phanxicô Salêsiô: "Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa".
15. Lạy Thầy, xin cứu con.
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: "Đời anh sóng gió nhiều quá" hay nói: "anh phong trần quá" - phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế;ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
"Lạy Thầy, xin cứu con". Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra...
Lời cầu nguyện: "Lạy Thầy, xin cứu con" phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con" vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. "Lạy Thầy, xin cứu con".
16. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN VỚI PHÊRÔ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Người bắt buộc": Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải chăng vì họ không muốn để Người một mình trong đêm vắng? Hay vì Người sợ các môn đồ nhiễm lây sự kích thích muốn tôn Người làm vua của đám đông phấn khởi trước phép lạ hóa bánh ra chiều (x Ga 6,14-15).
"Còn đò thì... lắc lư với sóng": Matthêu nói về con đò như nói về một thực thể cộng đồng mà ta có thể coi là biểu tượng của Giáo Hội ở câu 33 cũng thế, tác giả không bảo là các môn đồ mà là "những kẻ ở trong đò".
"Canh tư' đêm tối, người đi trên biển đến cùng họ": Canh tư tương ứng với khoảng thời gian 3-6 giờ sáng. Phép lạ được kể ở đây gợi nhớ nhiều đoạn Cựu Ước cũng nói Thiên Chúa đi trên biển (G 9, 8; 38, 16; Tv 77, 20; Hb 3, 15; Hc 24, 5), nhưng theo một ngôn ngữ ẩn dụ. Thành ra có sự song song giữa Chúa Giêsu và Giavê vậy.
"Chính là Ta": Qua kiểu nói đây, chắc hẳn Chúa Giêsu trước tiên muốn sửa sai ngộ nhận của các môn đồ (Người không phải là ma) và đồng thời trấn an họ, vì họ chẳng nhận ra đó chính là Người. Nét này gặp lại trong các trình thuật diễn tả Đấng Phục sinh hiện ra dưới một hình dạng khác lạ(x. Lc 24, 36tt). Nhưng vì ở đây Chúa Giêsu tỏ mình qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên vũ trụ, nên cần phải nối kết với các cuộc thần hiển của Cựu Ước, trong đó Giavê vẫn thường giới thiệu mình bằng một thành ngữ tương tự: 'Chính là Ta' hay 'Ta là' (St 17, 1; 26, 24; 28, 13; 35, 11; 46, 3; Xh 3, 6. 14). Một lần nữa, Matthêu kín đáo nhấn mạnh rằng có một tương hợp giữa Chúa Giêsu và Giavê.
"Và Phêrô bắt đầu đi trên nước": Người môn đồ được một quyền lực thần thông như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa Giáo Hội học của đoạn văn. Đây là một đặc điểm của thần học Matthêu, theo đó Chúa Giêsu cũng san sẻ quyền tha tội (9, 6) cho các môn đồ Người (9, 8; 16, 19; 18, 18). Tuy nhiên Phêrô chỉ đi được trên nước nhờ niềm tin của ông. Thánh sử còn nhấn mạnh ở nhiều đoạn khác quyền năng ấy của đức tin cùng hiệu lực lạ lùng và tức khắc của nó. Như với viên sĩ quan đến xin người chữa bệnh cho tên đầy tớ, Chúa Giêsu đã trả lời rằng: "Ông hãy đi, ông đã tin sao, thì sẽ được như vậy". Và ngày giờ ấy tên đầy tớ đã được khỏi (8, 13). Vì đối với người có lòng tin thì "không có gì mà không làm được" (17, 20).
"Lạy Ngài, xin cứu tôi": Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bão tố ("Lạy Ngài, xin mau cứu, chúng tôi chết mất": 8, 24), tiếng kêu của Phêrô làm vang vọng nhiều lời cầu khẩn của nhiều Thánh Vịnh, trong đó người tín hữu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồng nước đang dọa đe (Tv 69, 2 và 15; 144, 7; xem thêm Tv 18, 17; 32, 6; Is 43, 2- 3). Thành thử đây là một lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu dù với chút ít nghi ngờ.
"Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa": Như các chỗ khác trong Tin Mừng, lời tuyên tín này chắc hẳn không có giá trị như việc các môn đồ nhìn nhận tử hệ tự bản tính của Chúa Giêsu; song là nhìn nhận tử hệ theo nghĩa rộng; đây chỉ là lời công bố về thiên sai tính của Người. Tuy nhiên, có thể cộng đoàn Kitô hữu hậu-phục-sinh sau đó dùng lại lời tuyên tín của Phêrô và thêm vào ý nghĩa đầy đủ là Thánh Thần soi sáng. "Những kẻ ở trong đò" nghĩa là ở trong Giáo Hội, theo gương Phêrô và các môn đồ, tuyên xưng Chúa Giêsu thực là Người Con duy nhất của Thiên Chúa tối cao.
KẾT LUẬN
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho "các kẻ ở trong đò", nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: "Ngài thật là Con Thiên Chúa".
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. "Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được" (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
2) Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự ngũ hành cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
3) Chúa Giêsu ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện, một lối cầu nguyện thật đặc biệt như giòng sông êm ả giữa Chúa Cha và Người. Không phải Người chẳng thích lối cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện công khai đâu (ta đã thấy Người cầu nguyện trước đám đông lúc hóa bánh ra nhiều: 14,19), nhưng thỉnh thoảng Người cảm thấy cần có một lối cầu nguyện đơn sơ và cá nhân như thế. Trong việc này cũng như trong mọi chuyện khác của đời Người, Người là gương mẫu cho ta: không thể tưởng tượng ra một môn đồ Chúa Giêsu không biết bắt chước Người trong việc cầu nguyện.
4) Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy ta sợ, thế của ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên đò với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con". Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!".
5) Phêrô bắt đầu chìm xuống "lúc thấy gió mạnh" (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người.
6) Thử thách, khổ đau, thất bại không vùi dập nhận chìm Kitô hữu, nhưng cảnh tỉnh, thanh luyện niềm tin.
17. Chú giải theo Fiches Dominicales.
NGƯỜI KÉM TIN, SAO NGƯƠI LẠI NGHI NGỜ?
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Nỗi sợ hãi của các môn đệ cô đơn giữa cơn bão táp
Đoạn văn tường thuật việc Đức Giêsu đi trên mặt nước, ta đọc thấy cả trong Mt, Mc (6,45-52 và Ga (6,16-21). Cả ba tác giả đều đặt hiến cố này sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Tường thuật của Matthêô gồm 4 phần nối kết chặt chẽ với nhau: 1. Tương quan với việc hoá bánh ra nhiều; 2. Việc Đức Giêsu rút lui lên núi; 3. Việc Đức Giêsu đi trên mặt nước; 4. Việc Phêrô bước đi trên mặt nước và tuyên xưng đức tin.
1/ Tương quan với phép lạ hoá bánh. J.Potin coi như tương quan thần học. Trong sa mạc Sinai, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và đã dẫn dắt họ đi qua Biển Đỏ. Cũng vậy, Đức Giêsu nuôi dân chúng và bước đi trên biển để dẫn dắt các môn đệ tới bến bờ bên kia. (Jésus, llhistoire vrai Centurion 1999 trang 257). Thánh Matthêô thuật lại: "Ngay sau khi đã nuôi dân trong sau mạc, Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ lên thuyền và cho qua bờ bên kia trước". Tại sao phải lên thuyền vội vã và bị bắt buộc như vậy. Cả hai tác giả Matthêô và Maccô đều không giải đáp câu hỏi này. Trái lại, Gioan cho ta biết: dân chúng quá cuồng nhiệt về phép lạ hoá bánh, nên muốn ép buộc Ngài làm vua (Ga 6,15). Phải chăng Đức Giêsu muốn ngừa môn đệ khỏi ô nhiễm bởi cám dỗ về một thành công hão huyền.
2/ Sau khi đã giải tán đám đông, Đức Giêsu rút lui lên núi một mình để cầu nguyện. Núi là khung cảnh của bài giảng Bát Phúc, và cũng là nơi diễn ra biến cố Hiển Dung (17,1) và cuối cùng là nơi hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ ở Galilê (28,16). Đọc qua Thánh Kinh, ta thấy núi là một địa điểm thần học hơn là một địa điểm địa lý; núi là nơi được chọn để Thiên Chúa tỏ mình ra và để ta găp gỡ Thiên chúa (xem bài đọc I Chúa nhật này), là nơi ưu tiên dành cho việc cầu nguyện.
G. Gaide giải thích: Đức Giêsu hướng về Cha của Người. Dự kiến của quần chúng là một thử thách đối với Đức Giêsu, một cơn cám dỗ lôi kéo về thành công dễ dãi; cơn cám dỗ số hai (Mt 4,5-7) là muốn lôi kéo quần chúng theo mình bằng những hành động kỳ diệu, trong khi Chúa Cha muốn cho Người lôi kéo mọi người lên với Người bằng việc chịu treo lên thập giá (rồi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Ga 12,32). Trong cơn cám dỗ này, Đức Giêsu hướng về Đấng đã sai phái mình, để hiếu rõ ý nghĩa sứ mạng của mình (Assemblee du Seigneur", trang 25-26).
"Chiều đến" Đức Giêsu ở đó, múc lấy sức mạnh trong cuộc đàm thoại với Cha Người, sức mạnh để đẩy lui cơn cám dỗ, dụ dỗ Người chiều theo ý kiến cứu chuộc bằng cách thức loài người. Người "cô đơn" giống như vào một buổi tối hấp hối sau này trong khi các môn đệ của Chúa bất lực, thiếp nghỉ vì buồn sầu.
3/ Đức Giêsu bước đi trên mặt biển. Matthêô thuật tiếp: "Thuyền bị sóng dập vùi bởi vì gió ngược". Trong khi Đức Giêsu ở cách xa họ để cầu nguyện, thì con thuyền của các môn đệ-tượng trưng cho Hội Thánh - phải đương đầu với đêm tối bão táp, vào canh tư đêm tối, Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển". Cuộc đi bộ trên biển trong đêm tối không chỉ biểu dương một phép lạ suông, xét theo cách diễn tả của tác giả Tin Mừng, nhưng nó hàm ngụ nhiều ý nghĩa khác: Biển đối với người am hiểu Thánh Kinh, tượng trưng cho quyền lực của sự ác; biển rẽ ra hai bên dưới cây gậy của Môsê, mở một con đường cho Dân Chúa đi về tự do. Thánh Vịnh 77 ca ngợi: "Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Chúa". Đi trên biển, Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng chiến thắng sự dữ, Người đến để mở cho dân của Giao ước mới lối đi từ sợ hãi qua tin yêu. Chính "vào lúc đêm tàn" giống như buổi bình minh của ngày phục sinh, Đức Giêsu đến: cách nói điển hình chỉ cuộc hiển linh phục sinh (xem Ga 20). Cuộc tỏ mình này, thánh ký Tin Mừng trình bày như báo hiệu và như tiền trưng của cuộc toàn thắng phục sinh của Đức Giêsu đối với biển cả chết chóc.
Vì, "xao xuyến" nên các môn đệ không nhận ra Người. Họ sợ hãi kêu lên: "Ma kìa". Lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ lúc đó còn hơn là một lời trấn an: "Hãy vững tin. Đừng sợ. Thầy đây mà". Đây là một sự mạc khải: Đức Giêsu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, họ không phải sợ hãi. "Thầy đây mà". J.Potin đã giải thích: Đàng sau câu nói quả quyết này, các môn đệ được mời gọi cảm nghiệm câu định nghĩa mà Thiên Chúa đã phán với Môsê về chính mình, khi Người xuất hiện đột ngột với ông ở núi sinai: "Ta là Ya-vê: Đấng Tự hữu".
Tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu "Con Thiên Chúa".
4/ Và cuối cùng là việc Phêrô đi trên biển, việc này cũng mang ý tượng trưng, cùng với việc tuyên xưng đức tin. "Lạy Chúa, nếu thực là Chúa thì xin truyền cho con đi đến với Ngài trên mặt nước". Nơi Maccô, tường thuật chấm dứt lúc Đức Giêsu bước lên thuyền với các môn đệ và lúc đó sóng gió lắng dịu. Nơi Matthêô tường thuật còn nối dài với cảnh tượng báo trước thái độ mà Phêrô sẽ xử sự sau này: một buổi chiều kia, sau khi đã tuyên xưng lòng tin không hề lay thuyền của mình, Phêrô sẽ té nhào cách thảm hại. Ông còn cần phải gặp gỡ Đấng phục sinh để bước qua thử thách ngày thứ sáu đau thương, mà tới được bến bờ lòng tin vào Chúa Phục sinh. Lúc này Phêrô liều mình bước đi trên mặt nước để đến gặp Đức Giêsu, đó là một hình ảnh sống động về thân phận của người tín hữu. Bị giằng co bởi một bên là lòng tin, lòng tin đem ông đến với Chúa, và bên kia là sự nghi ngại, nghi ngại khiến ông chìm xuống nước. Ông kêu lên: Chúa ơi, cứu con với? Và Đức Giêsu giơ tay ra để cứu ông. "Và khi đã lên thuyền, sóng gió lắng dịu". Lúc này Phêrô đã lên thuyền với Đức Giêsu. Gió lắng dịu. Mọi người trên thuyền, con thuyền Hội Thánh, đều sấp mình để tung hô lời tuyên xưng đức tin đầu tiên mà ta thấy được trong sách Tin Mừng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa".
BÀI ĐỌC THÊM:
1) "Đi từ mạc khải đến nhận biết" (L.Montoubou, trong "Evangile de Matthieư', Salvator trang 198-199).
Chính vào lúc con thuyền của các tông đồ bị bóng đêm vây kín vào canh tư đêm tối (khoảng 4 giờ sáng), lúc thuyền bị những đợt sóng lớn nhồi đập dữ dội, bị cản trở bởi gió ngược, thì chính lúc đó Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển. Đó là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh, Thiên Chúa bước đi trên biển cả. Ta đọc trong Thánh vịnh 77: "Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Người, không ai biết được đường lối Chúa". Các môn đệ ngạc nhiên, vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng vạch lối đi trên biển cả, họ nghĩ đó là một bóng ma. Họ cần đến câu nói của Chúa: "Thầy đây mà!" mới nhận ra Người. Nhận ra Chúa trong khi tuyên xưng Người là Đấng nào. Thành ngữ "Ta đây" là một cách chuyển dịch câu: "Ta là Ta: Ya-vê". Mà câu "Ta đây" nói ở giữa biển cả là câu nói, theo Matthêô, công bố thần tính. Đây là thuật ngữ mà Thiên Chúa đã tự mạc khải cho ông Môsê, rồi sau đó cho dân Israel, trong quá trình một cuộc phiêu lưu lịch sử, ở đó biển đóng một vai trò quan trọng, Thiên Chúa Ya-vê dùng để tỏ ra quyền lực vô biên của Người. Nhưng mạc khải này đây không đi sâu vào nội tâm của các môn đệ, như thái độ của Phêrô chứng tỏ. Ông còn cần cảm nghiệm bản thân và trực tiếp sự phũ phàng của cơn bão táp, cảm nghiệm sự nguy hiểm mà ông phải đương đầu, sau đó ông mới tìm được tận thâm sâu con người ông một thái độ sẵn sàng để tin. Ông kêu lên: "Chúa ơi, xin cứu con!". Kìa Đức Giêsu được Phêrô kêu bằng danh hiệu "Đức Chúa" (KUTRIOS, chuyển ngữ Hy Lạp của danh Chúa YAHVE), có nghĩa là Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa hiệu năng, Thiên Chúa cứu độ. Giờ đây bão táp đã chấm dứt, gió đã lắng dịu, các môn đệ mới hiểu rằng Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa".
Trước hết Người là Đấng mà họ tìm đến, bởi vì khi Người xuất hiện giữa lúc họ gặp nguy nan, Người có dáng vẻ hấp dẫn, nên đã khiến cho Phêrô kêu lên: xin Ngài truyền cho tôi đến với Ngài. Lúc này, Người là Đấng mà họ phục lạy và tuyên xưng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa. Những người ở trong cùng một con thuyền đã có được sự đồng nhất trong đức tin, cùng có một thái độ trước Đức Giêsu và tuyên xưng cùng một đức tin.
2) Chúng ta cũng giống như các môn đệ trong thuyền. (Mgr Daloz trong cuốn "Le Règne de Dieu s'est approché" Desclée de Brouwer, trang 222).
Các môn đệ hoảng sợ khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển tiến đến với họ, và họ tưởng Người là ma. Chính họ đã hoạt động với Người để phục vụ dân chúng, thế mà giờ đây họ không nhận ra Người. Chỉ Đức Giêsu cho người khác thì dễ hơn là nhận ra Người trong giờ phút gian nan của cuộc sống của chính bản thân ta. Trong những giờ phút đó, đức tin của ta bị thử thách, đức tin với những bóng tối của nó. Lúc đó chính Chúa phải tự tìm cách tỏ cho ta biết Người. Khi ta tuyên xưng đức tin, khi ta chia sẻ hoặc giáo huấn đức tin, khi ta hoạt động rao giảng Tin Mừng, đức tin được ta coi như một của sỡ hữu yên tĩnh, một hiểu biết êm vui giúp sống và hoạt động. Nhưng những thời điểm quan trọng nhất, quyết liệt nhất của đức tin thì không êm ả chút nào: đó là những lúc ta gặp thử thách, như một tai họa lớn, một sự đe dọa liên quan đến mạng sống, đe dọa cho lẽ sống của ta, đe dọa những người thân nhất của ta, hoặc có thể là một hoàn cảnh hay một ý nghĩ thúc giục ta tự vấn sống để làm gì, hoặc khi công việc mà ta đang làm gặp thất bại, ta cảm thấy mình yếu đuối, bệnh tật, tội lỗi vv... Bấy giờ đức tin không còn là của sở hữu yên tĩnh nữa, ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nữa. Ta giống như các môn đệ ở trên thuyền. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu có thể gây ngộ nhận, nó khác với điều mà ta tưởng tượng hoặc ta giảng giải cho người khác. Ta không nhận ra Người nữa, giống như các môn đệ nghĩ rằng mình thấy ma... Tuy nhiên, phải chăng những lúc này mới là giờ phút ta có được đức tin tinh tuyền hơn. Phải chăng đến gần Thiên Chúa thường làm ta mất phương hướng, chăng là chuyện thường tình sao? Người là Đấng khác, hoàn toàn khác, làm sao ta có thể nhận biết Người, nếu Người không tỏ mình cho ta? Những giờ phút ta bị lạc hướng bởi sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa, chính là những thời điểm nền tảng cho đức tin. Đó là lúc Chúa nói với trái tim ta, là lúc ta nhớ đến một trong những lời của Chúa để ta đoán biết Người ở đó: "Hãy an tâm, Thầy đây mà. Đừng sợ!".
18. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại sao Đức Giêsu giờ đây giải tán đám đông sau khi đã nói rằng đám đông không cần đi đâu cả (tức vào các làng mạc mua thúc ăn)? Những chi tiết này không phải là không quan trọng. Chúng có một ý nghĩa và được Matthêu và Máccô thuật lại, nhưng chỉ có Gioan đem lại cho chúng ta một lời giải thích: Việc ban bánh trong sa mạc có một ý nghĩa chỉ về Đấng Mêsia đã làm cho nhiệt tình của đám đông bốc cao lên, họ hoàn toàn cuồng nhiệt bởi sự xuất hiện rất nhiều vị thiên sai ở thời kỳ lịch sử này của Israel.
Các đám đông, với những cảm nghĩ mơ hồ thường thấy và những động tác không kiềm chế lúc đó đã muốn kéo Đức Giêsu trong một cuộc phiêu lưu chính trị tôn giáo như đã có nhiều trong những quốc gia bị La Mã đô hộ và sau cùng tất cả đều kết thúc trong sự đàn áp đẫm máu. "Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một mình" (Ga 6,15). Đức Giêsu cũng biết rất rõ các môn đệ của Người, còn gắn bó với quan điểm về một Đấng Mêsia trần thế ". Họ dễ dàng buông mình theo sự say sưa muốn biểu dương ấy Đức Giêsu buộc họ phải xuống thuyền đi trước.
Vâng Đức Giêsu đôi lúc thấy mình phải đương đầu với những kiểu vấn đề như thế. Một mình người đối phó với mọi người.
Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện.
Người ta có thể thử tưởng tượng Đức Giêsu tranh luận tay đôi với những kẻ ngoan cố nhất và cuồng nhiệt nhất không muốn giải tán: không tôi không đến để làm chính trị: nước tôi không thuộc về thế gian này... tôi đâu có trách nhiệm cho các ông ăn mỗi ngày... các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn" (Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những cuộc tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức Giêsu cảm thấy nhu cầu cần phải cầu nguyện. Và chúng ta tưởng tượng Người giờ đây trong màn đêm buông xuống, bước theo con đường sỏi đá để lên núi. Bài đọc đầu tiên của Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta nhớ rằng "núi" trong Kinh Thánh là nơi ưu việt để "gặp gỡ Thiên Chúa" (1V 19,9) Đó là một chủ đề mà Matthêu ưa thích một cách đặc biệt: núi của các mối Phúc Thật (5,1 )... núi của sự cám dỗ (4,8)... núi của sự biến hình (17,1)... núi của Đấng sống lại (28,16)... Trong những tháng hè này, một số người đi nghỉ hè ở trên núi. Khi chúng ta có cơ hội lên núi, chúng ta có biết tranh thủ để cầu nguyện trong cô tịch và sự im lặng hay không?
Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình...
Phải để cho hình ảnh ấy thâm nhập vào tâm hồn chúng ta thật lâu: Đức Giêsu trên đỉnh núi trong bóng đêm, trong sự im lặng từ trái tim đến trái tim đơn độc, trong sự hiệp nhất với Chúa Cha.
Người ta dễ dàng đoán ra Người đọc kinh nào, đêm hôm đó. Người ta đã thử lái Người ra khỏi sứ mạng chủ yếu. Nhưng như một bản năng Người trở lại sứ mạng của mình: Vai trò của Người thuộc về tinh thần dù vai trò ấy có những hậu quả quan trọng trong lãnh vực vật chất. Một lần nữa, Đức Giêsu phải chiến đấu chống lại ma quỷ của thứ chủ nghĩa Mêsia quốc gia đã "hứa hẹn cho Người tất cả các nước thế gian" (Mt 4,8-10). Một sự cám dỗ khủng khiếp, ám ảnh gần gũi; và lặp lại mãi. Sự quyến rũ của sự thành công tức thời mà Đức Giêsu can đảm đẩy lui bởi sự cầu nguyện. Không, người sẽ không là vị "vua" vinh quang và được tôn vinh. Người sẽ là Đấng Mêsia nghèo khó, sống tróng bóng tối, bị đau khổ và cái chết đánh gục. Chiến thắng của Đức Giêsu sống lại từ cái chết chỉ dành cho những ai tin.
Đức Giêsu cũng cầu nguyện nhiều cho các "môn đệ" Người vừa sai đi trước. Người phải nghĩ về Giáo Hội mà người thành lập, và cơn cám dỗ thường xuyên muốn đưa những phương tiện của con người lên hàng đầu. Phần tôi, tôi có tin vào giá trị cầu nguyện không? Nếu xét về bề ngoài và theo tính chất của con người, thời gian mất đi ấy lại vô cùng quan trọng về mặt tâm linh. Thỉng thoảng tôi có cầu nguyện một mình không?
Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiêu dặm, bị sóng đánh vì ngược gió.
Trong động tác bất ngờ của máy quay phim, cũng như trong một phân cảnh tài tình của phim ảnh. Matthêu đi từ hình ảnh Đức Giêsu trên núi qua hình ảnh chiếc thuyền trên mặt biển. Đạo diễn trước tiên tập trung chú ý trên "chiếc thuyền" bằng việc sử dụng bút pháp dị thường: trong lúc Máccô nói các môn đệ phải vất vả chèo chống (Mc 6,48)... thì Mátthêu cũng bằng những chữ ấy nói rằng chiếc thuyền bị sóng đánh vật vã. Tất cả những nhà chú giải từ những giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội đã nhìn thấy trong chiếc thuyền ấy là biểu tượng của Giáo Hội. Vào thời thánh Mátthêu, các cộng đoàn Kitô hữu trong thực tế chỉ là những chiếc thuyền mong manh chèo chống khó khăn trên mặt biển đầy sóng gió của ngoại giáo và đi ngược gió!
Vào khoảng canh tư Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.
Cảnh trước đó (Đức Giêsu cầu nguyện trên núi... chiếc thuyền bị sóng đánh) như thế đã kéo dài suốt đêm!
Đối với nhiều người, cảnh Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và những kẻ ngây thơ. Khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy "có ích", chúng ta ngạc nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp trực tiếp các bạn hữu của mình? vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giêsu trước hết là những "dấu chỉ": Đó là những cử chỉ nói được, hoặc có một điều gì nói với chúng ta. Tính chất tượng trưng của chúng đứng hàng đầu, không vì thế mà chối bỏ giá trị sự kiện lịch sử của chúng. Các tác giả Tin Mừng rõ ràng đã đọc lại các biến cố, từ ba yếu tố dùng để giát thích: 1. Sự sống lại của Đức Giêsu... 2. Truyền thống của Cựu Ước... 3. Những nhu cầu của các cộng đoàn mà họ kể lại.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, biển là hiện thân của sức mạnh thù địch với con người. Những người Do thái, như nhiều dân tộc sống trong đất liền đặt vào biển mọi nỗi sợ hãi lâu đời dưới hình thức những quái vật huyền thoại như: Lêviathan; Raháp (Tv 104,5-9-26; 106, 9 - 74,13-14; Is 51,9-10). Bão tố, trong mọi ngôn ngữ không chỉ được xem như một hiện tướng tự nhiên như một biểu tượng của những sức mạng xấu nhưng mạnh hơn con người. Còn Thiên Chúa được giới thiệu như Đấng "thống trị biển cả", Đấng "đi trên mặt biển" (Ga 9,8; Tv 77,20; Kb 3,15). Như thế Đức Giêsu đi trên mặt biển chứng tỏ Đức Giêsu làm được điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm: đó là một "biểu hiện của Thiên Chúa", một sự thần hiện, hình ảnh của sự sống lại...
Những cộng đoàn Kitô hữu HÔM NAY và nói riêng mỗi người chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu thống trị sự ác với tất cả quyền Chủ Tể của Người.
Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!" và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!".
Khẳng định: "Đừng sợ!" đối chiếu cảnh này lúc Người đi trên những vực thẳm của sự chết với cảnh trong lễ Vượt Qua lúc: Người biến hình (Mt 17,7) và sống lại (Mt 28,5-10)...
Mỗi lần một người đến gần Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, có một cử chỉ điển hình gồm hai khía cạnh: "sự sợ hãi" chiếm lấy con người... "lời mời gọi đừng sợ" mà Thiên Chúa luôn lặp lại..' (St 21,17; Is 7,4; Dn 10,19; Lc 1,13; Cv 18,9; Kh 1,17 ). Than ôi, trong cả một đời người không thiếu bão tố. Biết bao lần chúng ta lại không cảm thấy mình như bị buồn nôn khủng khiếp vì say sóng tưởng trút linh hồn (Tv 107,25-27). Chúng ta không chọn lựa cho mình biển hồ và thời tiết xấu... cũng không chọn bão tố, bóng đêm... cũng không chọn những cơn cám dỗ, những cơn thử thách. Và nỗi sợ hãi chiếm lấy chúng ta!
Giờ đây như các môn đệ của biển hồ Galilê, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự "hiện diện của Đấng Vắng Mặt". Lạy Chúa, Chúa ở đây với chúng con trong cơn bão tố này và Chúa lại nói với chúng con: "Chính Thầy đây, hãy cậy trông! Đừng sợ!".
Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Đức Giêsu bảo ông: "Cứ đến!". Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng của Thánh Matthêu, Phêrô được giới thiệu như người đứng đầu các tông đồ, "người phát ngôn" của họ (Mt 10,2; 15,15; 16,16-17; 17,24-27; 18, 21).
Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài xin cứu! con với!". Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"
"Người đâu mà kém tin vậy!" Chủ đề "đức tin nhỏ bé" là một trong những chủ đề mà Matthêu không ngừng nhấn mạnh (6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,20). "Người có đức tin quá nhỏ bé... bước đầu của đức tin... đức tin không hoàn hảo..." chúng ta nhận thấy mình trong cách diễn tả đức tin không phải là một đồ vật làm sẵn, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một "sự sống" đang tăng trưởng hoặc đang suy thoái. Đó là một "lịch sử" đang vận hành và vì là quan hệ giữa hai người nên không ngừng biến đổi.
Đức Giêsu chấp nhận sự yếu đuối đức tin của chúng ta nhưng nmời gọi chúng ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong bão tố mà "đức tin nhỏ bé, kém cỏi" của chúng ta được thẩm định và thực hành.
Ở đây đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi đát như một cuộc chiến đấu chống lại sự hồ nghi và sợ hãi. Phêrô người tín hữu đầu tiên không được đặt lên hàng đầu vì những phẩm chất cá nhân. Chúng ta thấy ông đã hụt chân, như buổi tối mà ông đã chối Chúa ba lần sau khi hung hăng lớn tiến tuyên bố lòng trung tín (Mt 26,35.69.75)
Tuy nhiên giữa lúc hoài nghi, ông cầu nguyện: "Thưa Ngài, xin cứu con với! Kyrie eleison!".
Vậy sơ đồ của đức tin chúng ta là gì: một lời kêu gọi của Đức Giêsu bảo chúng ta "Hãy đến.!" một cuộc hành trình trên những vực thẳmcủa sự phi lý bề ngoài của đức tin..sự hoài nghi làm chao đảo... sự chỉnh đốn hoàn toàn của Đấng cầm tay chúng ta.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió yên lặng ngay.
Một nhận xét đơn giản bề ngoài không quan trọng đối với người đọc quá nhanh.
Một lần nữa, đây là một chi tiết tượng trưng mà hình ảnh đã lên tiếng: "Thầy trò" cả hai đã lên thuyền, và gió lặng. Đức Giêsu và Phêrô cứu chiếc thuyền này trong cơn tai biến.
Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Trong sách Tin Mừng Matthêu, đây là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên. Chúng ta phải giữ lại trang Tin Mừng này cho cơn bão tố sắp tới của chúng ta. Phêrô suốt đời sẽ nhớ lại điều này, khi ông sẽ bước vào những cơn giông tố khác trầm trọng hơn ở Rôma vào thời của Vua Nêrôn.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét