THIÊN CHÚA Ở CÙNG TẤT CẢ CHÚNG TA





































Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu - 21 Bài Suy Niệm & Giảng Lễ


SUY NIỆM LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
Lời Chúa: Dnl. 8, 2-3.14b-16a; 1Cr. 10, 16-17; Ga. 6, 51-58
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. 
Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51)


MỤC LỤC
1. Mình Máu Thánh Đức Kitô
2. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
3. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Một trao đổi khôn lường – Achille Degeest
5. Cậu bé Marcellino 
6. Để đón nhận sự sống đời đời 
7. Mình Máu Thánh Chúa – R. Veritas 
8. Bí tích Thánh Thể 
9. Thánh lễ làm cho chúng ta trở thành anh em 
10. Thánh Lễ nối dài 
11. Sức sống 
12. Thánh Thể 
13. Tấm bánh 
14. Tình yêu của Thiên Chúa 
15. Bánh 
16. Bánh 
17. Thánh Thể 
18. Suy niệm của JNK 
19. Chúa Giêsu bồng ẵm tôi 
20. Chú giải của Fiches Dominicales 
21. Chú giải của Noel Quesson 

1. Mình Máu Thánh Đức Kitô.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
- Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
- Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
- Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
- Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
- Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
- Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
- Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một bữa tiệc, thì chúng ta phải cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi. Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh của Ngài. Nhưng vì Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận Chúa vào cõi lòng, thì linh hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh, nghĩa là sạch tội trọng. Và hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy duyệt xét lại mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với Tin Mừng và nhất là chúng ta đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi vì chúng ta phải làm hoà trước đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.

2. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi.
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống". Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên "ăn bánh thánh". Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: "Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa". Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh. "Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ "sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.

3. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?

4. Một trao đổi khôn lường – Achille Degeest.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hoá bánh ra nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể của Ngài và quyền phân phát vô tận lương thực thần linh, mà bánh hoá nhiều là biểu tượng. Như đối với phần đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây được đề ra.
1) Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. "Bánh" cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới... Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
2) Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.

5. Cậu bé Marcellino
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một cuốn phim mang tựa đề: "Cậu bé Marcellino" kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- "Con thích điều gì nhất".
Cậu bé đáp:
- "Con muốn được thấy mẹ con".
Người khổng lồ liền nói:
- "Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say".
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: "Con yêu mến Chúa", "Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa". Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: "Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời". Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: "Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống". Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ "Thịt Máu" ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: "Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy". Không bí tích nào giúp chúng ta sống "với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa" bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là "Nhiệm thể Chúa Kitô". Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: "Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!" (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa". Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa". Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó "nhìn miệng" các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tông Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: "Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố". Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.

6. Để đón nhận sự sống đời đời
(Trích trong 'Cùng đọc Tin Mừng' của Lm. Trần Ngà)
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống". Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, ["Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha." Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?... Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì "khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân" (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là "ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời." (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.

7. Mình Máu Thánh Chúa – R. Veritas(Trích trong 'Sống Tin Mừng')
Một Mục sư nọ kể lại câu chuyện sau đây:
Hai người lính vào trong một Giáo đường. Họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa:
Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói:
Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn sàng chết vì điều mình tin chăng?
Sách Phúc Âm của Gioan đã thuật lại cho độc giả tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ: "Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi" (Ga 6,60). Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của mình: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?". Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ: "Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời". Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.
Toàn bộ chương VI của Phúc Âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga 6,16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: "Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống".
Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa phán hay không?
Ngày 3.5.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền thờ thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả mọi người hiệp ý với Ngài dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình tại Kosovo và cho tất cả mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa để chúng ta cùng hiệp ý chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong ngày hôm nay.
"Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng Đấng Cứu Thế".
Lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là ngày Lễ Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau quanh bàn thờ để chiêm ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa Kitô, Đấng đã ban cho tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.
Việc cử hành Thánh Lễ trọng thể và cuộc rước kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục tiêu đặc biệt là cầu khẩn tha thiết cho "Hòa Bình". Trong khi chúng ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không liên đới để trở thành những chi thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?
Phải, Thưa anh chị em thân mến,
Những tín hữu Rôma và khách hành hương hôm nay, tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau cho Hòa Bình. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất vang lên mệnh lệnh của Chúa: "Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa đã cho con đi qua" (Dnl 8,2). "Con hãy nhớ lại", đây là mệnh lệnh thứ nhất, không phải lời mời gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.
Để có được sự hòa bình của Thiên Chúa hứa ban thì trước hết hãy "đừng quên", hãy biết sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có thể rút ra một bài học để định hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi nhìn về thế kỷ này và nhìn về ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ lại những thử thách khủng khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể nào quên được, ngược lại chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, giúp chúng ta rút ra những bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua cũng như của những ai đã đi trước chúng ta.
Lịch sử muốn nói đến những khát vọng to lớn là muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà nhân loại đã phải chịu nữa là "nước mắt và máu". Chính ngày hôm nay 3.6.1963, cách đây hơn ba mươi năm về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị Giáo Hoàng của "Thông Điệp Hòa Bình Trên Mặt Đất". Thông Điệp này đã được mọi người đồng thanh ca tụng biết chừng nào, trong đó có nói lên những đường nét chính đích thực cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao lần trong những năm qua, người ta phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu hàng, người tín hữu biết mình có sức cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem lại bình an không như cách thức thế gian đã ban cho" (Ga 14,27).
Ngày hôm nay, chúng ta muốn hiểu thấu những lời này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần, chúng ta hãy bước vào nhà Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính Mình và Máu Ngài dưới hình bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang được tái diễn trong nhiệm tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận: "Người là hòa bình của chúng ta".
Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa không phải là hòa bình của thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự Vượt Qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
"Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống". Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thực. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian để được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống dồi dào: "Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài" (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là Bánh nuôi sống tất cả.
Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết và sống lại. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn "Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống".
Ước gì lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa gia tăng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

8. Bí tích Thánh Thể
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể, tất cả đều được diễn ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc thứ nhất đó là đám cưới Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã hóa thành rượu ngon. Qua phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi tân khỏi bị bẽ mặt với khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, cũng như chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi Ngài biến rượu thành máu thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta:
- Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan trọng hơn cả phải là bữa tiệc ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:
- Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:
- Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt 26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa ăn nơi quán trọ gần làng Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân, Người đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh, đã sống lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường, chúng ta thấy, những người cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một bữa cơm, thường có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình nghĩa gia đình, tình nghĩa bè bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui, một nỗi buồn, hay một công việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng của tình yêu, của cảm thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể cũng vậy, phải là biểu tượng của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như lời thánh Phaolô:
- Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô. (1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể cũng chính là sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng ta phải bắt chước cộng đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội còn phôi thai. Từ nghi thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán phục và kêu lên:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào. (Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày, hay ít nữa là hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thế nhưng, trong cuộc đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm thông và sống hiệp nhất với nhau hay chưa?

9. Thánh lễ làm cho chúng ta trở thành anh em
Càng ngày người ta càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: "Tôi là tín hữu nhưng không hành đạo". Tôi hy vọng rằng tất cả con người bạn nổi lên chống lại cái khẳng định tách rời sự "hành đạo" với "đức tin" này. Nhưng chúng ta hãy xem xét kỹ mối dây liên kết giữa hai điều trên.
Việc chúng ta suy niệm về Bánh Hằng Sống sẽ chỉ cho chúng ta thấy mối liên kết giữa hai phần của cuộc sống Kitô hữu: "Nếu các ngươi không ăn thịt Ta, nếu các ngươi không uống máu Ta, các ngươi sẽ không có sự sống"
Tiếng cốt lõi đó là: sự sống. Người tín hữu không hành đạo rất có ý muốn "sống đức tin" của mình. Và điều này được thể hiện tức khắc do một mối quan tâm chính đáng về tình yêu thương anh em: "Tôi tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Chúa Kitô không đòi hỏi tôi phải đi lễ, Ngài đòi hỏi tôi phải yêu thương".
Ngài đòi hỏi cả hai việc! Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con", cũng chính là Chúa Giêsu đã báo trước cho chúng ta: "Nếu các con không hiệp thông cùng thịt và máu Ta, các con sẽ không có sự sống. Sự sống này cho phép các con là anh em với nhau như Thầy là anh em với các con".
Phép Thánh Thể kết hợp chúng ta với cuộc sống của Chúa Kitô đến nỗi chúng ta không dám nghĩ đến điều đó nếu chính Ngài không nói với chúng ta: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy". Tôi nghĩ đến một câu rất hay của thánh Cypriano: "Ai chiếm trọn tâm lòng chúng ta kẻ ấy cũng được chúng ta nói đến". Người ta có thể thêm: người ấy cũng hiện diện trong các cử chỉ của chúng ta, trong cách thức chúng ta yêu thương nữa.
Người tín hữu muốn yêu thương mà "không đi lễ" thì không thấy được rằng họ ít có đức tin bởi vì họ không tin vào một lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu: "Không ăn Bánh Hằng Sống thì các ngươi sẽ không có sự sống". Người tin nửa vời này và người không tin có thể rất thương yêu nhau như anh em. Điều này rất thường gặp. Nhưng họ khó và hiếm khi yêu thương "như Chúa Giêsu". Đối với người không tin, đây là điều bình thường. Đối với người tín hữu thì đây là một sự lệch lạc: muốn là môn đệ của Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu mà không nuôi dưỡng mình bằng sự sống của Ngài.
Tôi biết rõ vấn nạn kinh khủng này: thực ra, người tín hữu hành đạo không bỏ lễ có yêu thương anh em đến thế chăng?
Trước hết, vơ đũa cả nắm là điều không tốt. Có những người tôn sùng Thánh Thể mà sự dễ thương và lòng độ lượng nói lên rất nhiều về "sự sống của Chúa Kitô" nơi họ.
Nhưng vấn đề Thánh Thể –liên quan đến tất cả chúng ta- chính là vấn đề sức sống Thánh Thể của chúng ta. Nhận lãnh sự sống bằng cách ăn Bánh Hằng Sống đòi hỏi một sự chú ý, một sự gắn bó bên trong là những điều thường quá thiếu vắng. Rước lễ dần dần trở nên ma thuật và thói quen, như thể việc di chuyển và giơ hai tay ra là đủ để trở nên một người xin sự sống đầy quyền lực. Không, điều này đòi buộc một niềm tin thức tỉnh nói với chúng ta lúc ấy, là tại sao chúng ta đi rước lễ và chúng ta vừa nhận lãnh thứ lương thực gì. "Một thứ bánh bị bẻ ra vì một thế giới mới", một cuộc sống bị nghiền nát để chúng ta có thể thoát ra khỏi ích kỷ và kiêu ngạo. Không có cái chết này làm sao chúng ta là anh em với nhau được?

10. Thánh Lễ nối dài
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa thánh lễ với cuộc đời mỗi người chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều người trong chúng ta chỉ sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Tới nhà thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo đẹp họ mặc vào khi đi tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành một loài lang sói bằng những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc đời và trong suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách sống đạo chỉ hạn hẹp trong bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm đẹp lòng Chúa, bởi vì chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài đòi hỏi chúng ta phải trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói với chúng ta:
- Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải mở ra cho chúng ta một thánh lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói lên rằng chúng ta phải kéo dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần thánh lễ trong chính môi trường và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác: điều quan trọng không phải chỉ là phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống đạo trong cuộc đời. Mỗi người chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi ươn thối, phải trở nên men làm cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải trở nên ánh sáng phá tan bóng tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc độ nào đó, Thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã có quan niệm sai lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một vở kịch, một cuốn phim, để rồi có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh lễ đòi hỏi mỗi người tham dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng thánh lễ với vị Linh mục, bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một lễ vật là Mình và Máu thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật riêng tư của mỗi người còn là những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, những gian nguy thử thách mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng lên cùng với Mình và Máu thánh Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm thường của chúng ta sẽ có được một giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một góp phần vào hy lễ thập giá, đồng thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một góc cạnh nào đó, thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Thánh lễ trong nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống thường ngày bằng cách chấp nhận những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng ta vác lấy, cũng như bằng cách thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá, những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một sự pha trộn, có một sự hòa nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được cử hành trong nhà thờ với cuộc đời chúng ta đang sống.

11. Sức sống
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Marcellino lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
- Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: "Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Thánh thể là Bí tích Tình Yêu. Khi mời gọi: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống Bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, sống Bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: "Chúng ta rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đày hay đau yếu".
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con.

12. Thánh Thể
Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu: "Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa?". Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng: "Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó". Đúng vậy, về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu: "Này là Mình Thầy", này là chén Máu Thầy", tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường. Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin. Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy? Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ hoặc không cám ơn đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.

13. Tấm bánh
Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói khát. Chúng ta hãy mở Tin mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà Đức Giêsu đã ban cho nhân loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát của họ.
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người phong cùi mà thân thể đang bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ đang ở một mình tại giếng Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cảm thấy mình có giá trị.
Đối với người góa phụ thành Naim, một người đã chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta và Maria, là những người chị vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay cả trong cái chết, chúng ta vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp.
Đối với Giakêu, một người thu thuế giàu có, đã tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã bắt đầu bằng cách tự để cho Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người đã đánh thức nơi ông ta một niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn, Người đã giúp ông ta biết chia sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết bên cạnh mình, Người đã ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa, do đó, Người đã ban lại bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, có một người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
Có một thanh niên giàu có, được Người ban cho tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ những của cải của mình.
Có những ký lục và Pharisêu được Người ban cho không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối dù chỉ một mẫu bánh.
Có những người dân thành Giêrusalem mà Người yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người đã ban cho tấm bánh của sự bình an, nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành phố của họ bị phá hủy.
Có một ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của ông ta vào tình trạng rủi ro.
Đức Giêsu đã chia sẻ chính Người cho mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình thức khác nhau, trước khi ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống, trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng rất nhiều cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất ý nghĩa sự hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện diện của Người trong Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp khó khăn gì lớn, trong việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách thức rất đặc biệt trong Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng thỏa mãn được những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì chỉ một mình Người có thể ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm bánh mà chúng ta được đón nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó, chúng ta sẽ không có sức mạnh để đi theo Đức Kitô.

14. Tình yêu của Thiên Chúa
Mừng kính Mình và Máu Thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là qua bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, tình yêu là một đề tài xưa như trái đất và được đề cập đến nhiều nhất qua sách vở, qua nghệ thuật cũng như qua cuộc sống. Tuy nhiên, con người vẫn chưa khai triển hết vẻ phong phú của tình yêu, cho nên tới bây giờ, tình yêu vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng trên môi miệng chúng ta.
Nếu đưa mắt nhìn xem, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của chúng ta được dệt nên bởi biết bao nhiêu yêu thương. Những người bạn chân thành luôn nâng đỡ để cùng nhau theo đuổi một mục đích, một lý tưởng. Những cặp tình nhân mà trái tim luôn đập cùng một nhịp yêu thương. Những người mẹ luôn ân cần nuôi dạy những đứa con thơ dại. Tình yêu ở trước mặt cũng như ở sau lưng chúng ta. Thế nhưng, đâu là mẫu số chung cho những thứ tình yêu ấy? Đâu là điểm làm cho mặc cho những thứ tình yêu ấy một giá trị và đưa chúng vào một lãnh vực cao cả hơn?
Tôi xin trả lời:
- Đó là sự hy sinh.
Thực vậy, đúng như tuc ngữ đã bảo:
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội,,mấy ngàn cũng qua.
Đã yêu thương nhau, thì sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh cho nhau và vì nhau để mưu cầu hạnh phúc cho nhau, nhu một câu danh ngôn đã bảo:
- Hãy cho tình yêu vào máy cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là một tình yêu thức thiệt, bằng không thì chỉ là một tình yêu thứ dổm mà thôi.
Sự hy sinh phải là nền tảng căn bản, trên đó tình yêu được xây dựng, cho dù sóng gió cuộc đời có phũ phàng, cũng không thể làm cho nó bị lay chuyễn. Hy vinh và tình yêu luôn bổ túc lẫn cho nhau: hy sinh sẽ làm cho tình yêu trở nên tinh ròng và tình yêu tinh ròng sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận hy sinh.
Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chính là tình yêu tuyệt hảo nhất, khuôn mẩu cho mọi tình yêu của chúng ta. Và như vậy, chắc chắn sự hy sinh Ngài dành cho chúng ta cũng thật lớn lao.
Sự hy sinh ấy bắt đầu từ nguyên thủy. Khi tạo dựng nên trời và đất, Ngài đã một phần nào đặt mình vào sự giới hạn của không gian và thời gian. Thế nhưng, Ngài đã nhận được những gì, nếu không phải là sự phản bội của loài người, một tạo vật đã được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài.
Tuy nhiên, dù con người có phản bội, Ngài cũng đã không bỏ rơi con người trong án phạt của sự chết, trái lại Ngài đã đưa ra chương trình cứu độ và thực hiện chương trình ấy trong dòng thời gian, bằng cách sai Con Một Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta.
Giả như bây giờ xảy ra một cuộc hỏa hoạn, hẳn chúng ta sẽ ca tụng hành vi can đảm của người đã dám coi thường cái chết, nảy vào vùng lửa cháy để cứu thoát một em bé nào đó. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài đã hy sinh vì chúng ta và đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, như lời Ngài đã phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hơn thế nữa, Ngài lãi còn trao ban cho chúng ta Mình và Máu thánh Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Vì vậy, chúng ta có thể nói được rằng bí tích Thánh Thể chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã nghe nói đến nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc. Đó là một nạn đói thật khủng khiếp, giết hại gần hai triêu người.
Có hai mẹ con người kia cũng lâm vào cảnh tang thương ấy và nằm hấp hối chờ chết bên vệ đường. Người mẹ trước khi nhắm mắt, đã không thể nào cầm lòng được trước tiếng khóc của đứa con thiếu sữa. Bởi đó, bà đã làm một hành động táo bạo, đó là cắn đứt ngón tay trỏ, để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng của mình thay cho dòng sữa đã cạn kiệt, với hy vọng nó sẽ được cứu sống.
Câu chuyện cảm động ấy không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng nó còn xảy ra mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta Mình Máu thánh Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Ngài đã xác quyết:
- Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Chính nhờ của ăn thần linh này, chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa, được trở nên giống Chúa và được chia sẻ sự sống ân tình với Ngài.
Vì thế, hãy siêng năng tham dự thánh lễ và hãy sốt sắng rước lể mỗi khi có thể, để đáp trả tình yêu thương vô biên Chúa đã dành cho mỗi người chúng ta trong bí tích Thánh Thể.

15. Bánh
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, trung tâm của Giáo Hội, trung tâm của đời sống đức tin, trung tâm của giáo xứ và đời sống của mỗi người như Công đồng Vatican II đã nói: "Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo", "Bí tích Thánh Thể tích chứa tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: Đó chính là Đức Kitô".
Vào năm 1263, một linh mục từ Prague, thủ đô Tiệp Khắc, đi hành hương tới Rôma cầu xin Thiên Chúa gia tăng đức tin cho ngài vì đang có những nghi ngờ về ơn kêu gọi. Trên đường tới Rôma, ngài ngừng lại ở một thị xã cách Rôma 70 dặm về phía bắc. Tại đây, trong thánh lễ, khi truyền phép ngài nâng cao bánh lễ lên, tấm bánh đã trở nên thịt và bắt đầu chảy máu. Những giọt máu đã chảy xuống trên tấm khăn thánh nhỏ màu trắng trên bàn thờ. Năm sau, 1264 Đức Giáo Hoàng Urban IV đã thành lập lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, và ngài đã yêu cầu thánh Thomas Aquinas sáng tác một bài ca cho ngày lễ. Thánh Thomas đã viết ra hai bài nổi tiếng là "Tantum Ergo" và "O Salutaris" mà chúng ta vẫn thường hát khi chầu Thánh Thể. Tấm khăn thánh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ tại vương cung thánh đường Orvieto, phía bắc thành phố Roma.
Mặc dù phép lạ thánh thể này đã dẫn tới việc thiết lập ngày lễ Mình và Máu Chúa Giêsu, nhưng phép lạ Thánh Thể nổi tiếng ở Lanciano, cũng tại Ý, đã xảy ra nhiều thế kỷ trước vào năm 700. Câu chuyện xảy ra tại nhà thờ thánh Legonzanô khi một linh mục dòng thánh Basiliô đang dâng thánh lễ bỗng trở nên nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Mình Máu Thánh Chúa trong hình bánh rượu. Lúc truyền phép, sự lạ liền xảy ra ngay trong tay vị linh mục. Bánh trở nên thịt sống và rượu trở nên máu tươi rồi đông đặc lại thành 5 cục to nhỏ. Tuy đã trải qua 1300 năm rồi, ngày nay vẫn còn thấy rõ miếng bánh đã biến thành thịt này có màu hơi nâu, nhìn dưới ánh sáng thấy màu hồng được đặt trong một mặt nhật quý giá. Và năm cục máu màu vàng nghệ được đặt trong một chén thánh bằng kính trưng bày ở nhà thờ Lancianô để giáo dân tự do kính viếng.
Trong 12 thế kỷ qua, giáo quyền đã cho làm nhiều cuộc giám nghiệm vào những năm 1574, 1637, 1770, 1886. Mới đây vào năm 1971 và 1981 một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã thử nghiệm lại bằng những thiết bị khoa học tối tân. Công việc được trao cho ông Odoardo Linoli, giáo sư môn giải phẫu nhân hình, kiêm giáo sư mô học bệnh lý, hóa học và hiển vi học, với sự cộng tác của giáo sư Ruggero Bertelli thuộc đại học đường Siena. Kết quả được công bố vào ngày 04.03.1971 trước các vị trong giáo quyền, chính quyền, các giới khoa học, văn học và báo chí:
- Thịt và máu này là thịt và máu thật, của một người có máu AB đã sống.
- Thịt được lấy ra từ mô cơ tim (myocardium), một phần thịt của trái tim, một cách khéo léo tuyệt vời như do một nhà phẫu thuật tài giỏi. Điều này có nghĩa là từ trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm. Đây chính là biểu tượng của tình yêu.
- Thịt và máu không có vết tích của một chất nào được dùng để ướp xác cả.
- Trong máu có các chất clorua, phốt pho, magnesium, potassium, sodium và calcium.
Các di tích này được lưu trữ bao nhiêu thế kỷ một cách tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng của những xúc tác vật lý, không khí, sinh vật mà vẫn giữ nguyên tình trạng như thế là một hiện tượng kỳ lạ, khoa học không sao giải thích được. Hơn thế nữa, điều lạ lùng là nếu đem cân một cục máu, trọng lượng vẫn bằng tổng số của cả năm cục. Đem cân riêng lẻ từng cục hay cân chung lại với nhau tổng số vẫn không thay đổi.
Đây là hai phép lạ Thánh Thể trong tổng số khoảng 22 các phép lạ khác xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Những phép lạ này trả lời cho những nghi ngờ về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu qua hình bánh và rượu. Lòng đạo đức và sự trung thành của chúng ta sẽ tùy thuộc vào sự ràng buộc bởi mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã ban trước ngày chịu nạn: "Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy".

16. Bánh
Trong sách Giáo lý Công giáo số 1358, Giáo Hội tóm lược ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể vào những điểm chính như sau:
1. Thánh Thể là sự cảm tạ và ngợi khen Chúa Cha: Thánh Thể là lời chúc tụng để Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì tất cả những ơn lành Ngài đã thực hiện qua việc sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Ý nghĩa trước hết của thánh lễ là "lễ tạ ơn" Thiên Chúa. Câu chuyện kể về một phụ nữ thường xuyên mang theo mình cuốn sách mỏng. Chị đặt tên cho nó là cuốn sách ghi chép tiểu sử cuộc đời. Chị thường chia sẻ với bạn bè rằng nó chẳng mất nhiều thì giờ để đọc, vì cuốn sách chỉ có ba trang giấy. Lại chẳng có một chữ nào được viết trên đó cả. Trang đầu tiên màu đen. Chị nói rằng nó đại diện cho các tội lỗi xưa nay của chị. Trang thứ hai màu đỏ, nó biểu tượng cho máu Chúa Giêsu đã đổ ra vì tội lỗi của chị. Trang thứ ba màu trắng, đại diện cho chính chị sau khi đã được lau sạch trong máu của Chúa Giêsu Kitô, Người đã làm cho chị trở nên trắng hơn tuyết.
2. Thánh thể tưởng niệm sự hy sinh của Chúa Giêsu: Một câu chuyện có thật gợi lên sự hy sinh cao cả của Chúa Kitô được những tù binh người Anh bị lính Nhật giam giữ trên bờ sông Kwai kể lại như sau: Một người lính Anh Quốc của trung đoàn Argyll bị lính Nhật bắt giam phải đi làm lao động khổ sai xây dựng đường rầy xe lửa. Như thường lệ, sau mỗi ngày lao động, tất cả những dụng cụ làm việc phải được kiểm kê. Ngay khi một nhóm tù binh vừa trao nộp dụng cụ xong, sắp sửa trở về trại, thì người lính Nhật canh giữ la lên rằng có một cái xẻng bị mất. Anh lính quả quyết rằng một người nào đó đã ăn cắp và bán cho người Thái. Cả nhóm tù binh phải tập họp lại. Anh lính Nhật bước tới bước lui trước mặt từng người tù, anh phô trương, nộ nạt, sỉ vả họ vì hành động xấu xa và vô ơn đối với hoàng đế. Đến lúc phát cáu, hắn nổi giận, và la hét. Hắn yêu cầu thủ phạm phải bước ra khỏi hàng ngũ chấp nhận hình phạt. Nhưng chẳng có ai động đậy. Tên lính Nhật lại càng nổi cơn điên lên cao độ hơn nữa. Hắn hét lên: "Tất cả phải chết! Chết hết! Chết hết!".
Để chứng tỏ điều hắn nói là thật, hắn lên cò súng, kê báng súng lên vai và chĩa nòng súng vào từng người một, sẵn sàng bắn từ đầu cho đến cuối. Vào lúc đó Argyll bước tới, đứng yên và nói,:Tôi đã làm điều đó". Tên lính Nhật tuôn ra tất cả sự thù hận, hắn đấm đá túi bụi vào Argyll. Tuy nhiên anh vẫn đứng lặng thinh với khuôn mặt đầy máu me đang chảy xuống. Sự yên lặng của anh đã khiêu khích sự phẫn nộ của tên lính Nhật lên tột độ. Hắn nắm lấy cây súng trường, đưa lên cao khỏi đầu, và với một tiếng tru lên như chó, hắn bắn vào đầu Argyll. Argyll tung người lên, rơi xuống đất, rồi nằm yên bất động. Mặc dù rõ ràng rằng người tù đã chết, nhưng tên lính Nhật vẫn tiếp tục đánh anh cho đến khi hắn kiệt sức mới thôi! Những người tù khổ sai đã lãnh xác người bạn mình, vác những dụng cụ lao động trên vai, bước về trại. Khi những dụng cụ lao động được đếm lại một lần nữa ở đồn lính canh, đã không có cái xẻng nào bị mất cả. Tất cả dụng cụ lao động đều đầy đủ! Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh "tưởng niệm" không chỉ có nghĩa là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn có nghĩa công bố những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người. Trong Tân Ước từ "tưởng niệm" còn có nghĩa là sự tái diễn có tính cách bí tích, làm cho trở thành hiện tại sự hy sinh của Chúa Kitô như Công đồng Vatican II đã nói: "Tất cả mỗi khi hy lễ thập giá mà Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta, được hiến tế trên bàn thờ, thì công cuộc ơn cứu chuộc của chúng ta được thực hiện".
3. Thánh Thể là sự hiện diện của Chúa Kitô: Nhờ quyền năng của Lời Ngài và của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo Hội bằng nhiều cách: trong việc cầu nguyện của Giáo Hội, nơi những người nghèo khó, nơi các bệnh nhân, các tù nhân, trong bí tích của Ngài, trong hy lễ Thánh Thể, và nơi con người của thừa tác viên. Đặc biệt nhất là Ngài hiện diện dưới hình bánh và hình rượu trong Bí tích Thánh thể. Đó là ngày lễ Phục sinh ở trong tù. Có chừng hơn 10.000 tù nhân chính trị bị giam giữ bởi một chế độ tàn bạo và áp bức. Một nhóm tù nhân Kitô hữu muốn cử hành Bí tích Thánh thể, nhưng họ không có bánh lễ, không có rượu nho, không có chén thánh, cũng chẳng có sách lễ, không có Thánh Kinh, và không có cả linh mục nữa. Những tù nhân không phải là Kitô giáo cũng nhiệt tình giúp đỡ: "Chúng tôi sẽ giúp đỡ các anh. Chúng tôi sẽ nói chuyện rì rào rất êm ái để quí vị có thể gặp nhau mà không lôi kéo sự chú ý của các tên canh tù". Một trong những tù nhân Kitô hữu lên tiếng góp ý với đồng đạo: "Chúng ta không có bánh lễ, cũng chẳng có lấy một giọt rượu nho, nhưng chúng ta sẽ cử hành như thể chúng ta có tất cả". Và người tù nhân Kitô hữu đó bắt đầu hướng dẫn mọi người tham dự thánh lễ qua các nghi thức phụng vụ. Mọi người đều ngạc nhiên vì anh nhớ từng lời, từng kinh đã nghe được qua bao nhiêu thánh lễ ngày Chúa nhật từ khi còn bé. Khi đọc đến những lời của Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, anh quay sang người bạn tù bên cạnh mình. Rồi nắm lấy hai bàn tay mà nói: "Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con". Và sau đó tất cả mọi người trong nhóm đi một vòng tròn, từng người một, mỗi người quay sang người bên cạnh, mở rộng đôi bàn tay và lập lại những lời của Chúa Giêsu: "Đây là mình ta sẽ bị nộp vì các con".
"Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" là một mệnh lệnh được thi hành không chỉ trong thánh lễ với linh mục thừa tác viên chính thức của Giáo Hội, nhưng còn được sống thánh lễ và cử hành bằng chính đời sống của các Kitô hữu nữa. Thánh Inhaxiô thành Antiokia đã nói: "Thánh Thể là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết". Đây chính là bảo chứng của Vương Quốc tương lai, sự sống đời đời như lời Chúa phán hôm nay: "Đây là bánh từ trời xuống... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".

17. Thánh Thể
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: "Đây là Mình Thầy", lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có manna đầy tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói "Đây là Mình Thầy". Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không? Thí dụ: "Tôi là ánh sáng". Chúng ta chỉ có thể nói: "Tôi có ánh sáng" hay "tôi chế ra ánh sáng la-de", chứ không ai có thể nói: "Tôi là ánh sáng". Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố "Tôi là ánh sáng". Cho nên, khi Chúa nói: "Đây là Mình Thầy" là một câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối Bí tích Thánh Thể đã cho rằng: câu Chúa nói: "Đây là Mình Thầy" chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói: "Đây là thánh Giuse". Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc tượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự thanh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn Isaac ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" phải hiểu là một chân lý quyền năng của Chúa. Như vậy, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" là Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Đây là điều chắc chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai, Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến bí tích tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba, Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta. Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm. Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.

18. Suy niệm của JNK
Câu hỏi gợi ý:
1. Những câu nói của Đức Giêsu như: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống", "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" có ý nghĩa gì?
2. Bản thân Đức Giêsu có thể ví như chiếc bánh bị ăn không? Tại sao?
3. "Ăn thịt uống máu" Đức Giêsu là gì? Cụ thể là gì?
SUY NIỆM
1. "Bánh hằng sống từ trời xuống" ở đây nghĩa là gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được.
Viết tới đây tôi nghĩ tới Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Đức Giêsu (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Đường Tam Tạng.
Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng Thịt đem lại sự sống đời đời ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hạn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản!
Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Đức Giêsu là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Đức Giêsu thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.
Thiết tưởng, câu nói của Đức Giêsu đang được bàn tới cần hiểu theo nghĩa tâm linh, huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn theo nghĩa đen. Vả lại, chính Đức Giêsu đã từng dùng từ "lương thực" hay "thức ăn" theo nghĩa tâm linh: ""Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" Đức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"" (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ "bánh", "của ăn", "của uống" trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.
2. Cuộc đời và bản thân Đức Giêsu là một "chiếc bánh bị ăn"
Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Đức Giêsu cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: "Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi" (Ga 6,38); "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Cả cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại.
Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39; x. 26,42). Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: "Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,6-8).
Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái "bánh bị ăn", nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà "được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.
3. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời"
Đức Giêsu nói: "Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống". Điều ấy chắc chắn là sự thật, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu để "được sống muôn đời" là gì? Muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu thì phải làm gì?
Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu. Đức Giêsu là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là "Lời". Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Đời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.
Ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước hầu thay thế dần dần "chất của ta" bằng "chất của Ngài", nghĩa là ta càng ngày càng trở nên "có chất Giêsu" hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta.
Nếu mỗi ngày ta thay thế 1% hay 1‰ "chất tôi" thành "chất Ngài" - ít hay nhiều tùy sự cố gắng hay quyết định của ta - thì chỉ một thời gian sau "chất tôi" đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và "chất Ngài" đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, "chất Ngài" ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Đương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy).
Lúc ấy tôi có thể nói như Phao-lô: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôi mà là Đức Ki-tô. Điều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Đấy là cách "ăn thịt uống máu" Ngài - mà tôi nghĩ theo thiển ý mình - là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời.
Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là "ăn thịt uống máu" Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.
4. Hãy trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giêsu
Như vậy, "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế "chất tôi" thành "chất Ngài", biến "tôi" thành "Ngài". Nói cách khác, đó là trở nên giống Đức Giêsu hoàn toàn. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Đức Giêsu là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên "chiếc bánh bị ăn" như Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). "Bị ăn" bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn "ăn thịt và uống máu" Đức Giêsu bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài để biến một phần rất nhỏ "chất tôi" trong con thành "chất Giêsu". Nếu mỗi ngày con chỉ biến 1‰ (một phần ngàn) "chất tôi" thành "chất Giêsu" một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau - tức khoảng 3 năm - con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Đức Giêsu. Đó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết "ăn thịt và uống máu" Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.

19. Chúa Giêsu bồng ẵm tôi
Một trong những truyện hay nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là truyện Chúa bồng ẵm một em bé. Các tông đồ tranh cãi xem ai là người cao cả nhất. Chúa Giêsu bảo các ông: "Ai muốn ở bậc nhất thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người". Rồi Chúa dắt một em bé lại và để em đứng giữa các ông. Chúa bồng ẫm em và nói: "Ai đón nhận một trẻ nhỏ như em bé này vì danh Ta là đón nhận Ta, và ai đón tiếp Ta, thì không phải đón tiếp Ta, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Ta" (Mc 9,36).
Theo truyền tụng thì em bé này sau trở nên thánh Ignatuiô thành Antiochia, Ngài đã hiến dâng mạng sống vì Chúa Kitô năm 107. Khi còn là thiếu niên, Ignatio thường dẫn bạn bè tới nơi mà Chúa Giêsu đã bồng ẵm cậu và bảo bạn bè: "Các bạn coi đó. Đây là chỗ Chúa Giêsu đã bồng ẵm tôi".
Nếu bạn muốn, bạn có thể coi đó là câu chuyện tưởng tượng của thời trung cổ, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã bồng ẵm một em bé. Sự kiện đó hôm nay làm nổi bật tư tưởng của tôi, nghĩa là trong sự Hiệp lễ, chúng ta không chỉ ôm ẵm Chúa Giêsu, nhưng chính Ngài cũng ôm ẵm chúng ta.
Có lẽ không bao giờ bạn nghĩ đến sự Hiệp lễ trong cách này. Chúng ta nói trực riếp: "Tôi đón nhận Chúa Giêsu trong sự hiệp lễ... Chúa Giêsu ngự vào trong lòng tôi". Chúng ta nói về những hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: "Ai ăn Thịt ta và uống Máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy". Chúng ta có thể nói như thánh Ignatiô: "Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi".
Thánh Cyrilo thành Alexandries so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêxa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của Ngài như là sự hoà tan với Chúa Kitô.
Bạn hãy tưởng tượng một em bé chạy lại gặp cha nó. Nó giang cánh tay nhỏ bé quàng vào cổ cha nó. Cố sức ôm chặt lấy cha nó. Nhưng người cha bồng lấy đứa con trong vòng tay to khỏe, ôm ấp đấ yêu thương. Sự hiệp lễ cũng phần nào giống như thế. Chúng ta ôm ẫm Chúa Kitô. Chúng ta đón rước Ngài ngự vào lòng ta. Chúa Giêsu ôm ẫm ta, đưa ta vào lòng Ngài.
Bạn hãy suy nghĩ điều này và bạn bắt đầu nhận thức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khát khao hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta.
Sự thật kỳ lạ này chúng ta cử hành hôm nay, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong sự buồn thảm của tuần thánh, chúng ta đã làm mới lại ngày thứ năm thánh đầu tiên, khi Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho các tông đồ, và các ông được dâng chính mình cho Ngài. Sự thật vui mừng lớn lao quá, chúng ta muốn cử hành một cách dặc biệt trong một ngày đặc biệt, Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta ước ao làm mới lại ước vọng được ôm ẵm Chúa Kitô và được Ngài ôm ẵm chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

20. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH RA NHIỀU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tác giả Tin Mừng nói rõ, chúng ta ở vào thời kỳ "ít lâu trước lễ vượt qua, một đại lễ của người Do Thái"(6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều, bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội (sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích Thánh Thể). Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng "năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá" (6,9), như thế Ngài cho thấy rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm, họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách Đệ Nhị Luật (18,15): "Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi". Thật vậy, trước những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói "chính Ngài là vị đại ngôn sứ phải đến trong thế gian". Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ "toan bắt ép Ngài làm vua của họ" (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút lui một mình lên núi trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ của Ngài.
Chính "ở trong hội đường Capharnaum" (6.59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng cho họ một bài về bánh ban sự sống", trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ. Đấng đã hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại. Câu 51 đến 58. đã được ghi trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không thể tách rời khỏi các câu trên, với sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
Cũng lời mở đầu: "Ta là bánh sự sống" (câu 35) và "Ta là Bánh hằng sống" (câu 51). Cũng lời cuối về sự sống vĩnh cửu: "Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời" ( câu 58).
Cùng lời quảng diễn về những xì xầm (đối chiếu với những "xì xầm" trong sách Xuất Hành, và những chống đối của người Do Thái) làm sao ông ta có thể nói: "Ta từ trời xuống" (câu 42), và làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn" (câu 52).
Nhưng trong lúc phần đầu của bài giảng trình bày "bánh sự sống" trong Đức Kitô với tư cách là Đấng mặc khải của Chúa Cha Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại quy chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình trước hết như là "Bánh sự sống" cho những ai tiếp nhận sứ điệp của ngài bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là "Ngôi Lời trở thành xác phàm" (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu ước đã nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có thể làm dịu cơn đói khát của con người: "Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ" (cf. Pro. 9,5,- Sir. 24,21).
Một giai đoạn mới đã vượt qua với phần hai của bài giảng.
Ở đây sự gợi lại cái chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn "bánh mà Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống. Và chữ "THỊT" làm nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: "Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. A. Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại. "Ngôi Lời trở thành xác phàm" (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51). Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên tục mật thiết. (Phúc âm thánh Gioan "Centurion", 1992, trang 108).
Và nếu, cho đến bây giờ cái tiếng chính là "TIN", "ĐẾN VỚI TÔI" thì bây giờ chúng ta lại thấy những từ: "BAN", "ĂN và UỐNG". A. Marchadour viết tiếp: "Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể (eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ "ĂN" truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: "nhai, cắn" điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết. Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc âm thánh Gioan "Centurion", p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là "thịt" Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian, ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong một ít câu) và "uống" máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời "ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian được sống" (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu 64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận liều mình trở nên "tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới". (Đại hội Thánh Thể Lộ Đức, 1981).
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, "Dossier biblique số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều người ta không thể hiểu nổi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại của Ngài. Cụm từ "bánh sự sống" trước hết là một cách nói về Đức Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5). Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: "ăn, uống, có sự sống". Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về "Thánh Thể" chúng ta hãy quan sát. Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Từ "thịt" làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm (1,14). Chính việc nhập thể (incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục. Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà nghe được! (6,60). Ở câu 53-56, thay vì động từ "ăn", Gioan dùng một từ rất mạnh: "nhai, cắn". Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực của Thánh Thể: Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tỉnh trong Đức Giêsu, đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma thuật: chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi (Ga 6,56). Thánh Thể, Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm: sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy, người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống đời đời.
2) "Cao quý thay mầu nhiệm đức tin" (Mgr. L.Daloz trong "Chúng ta đã thấy vinh quang Ngài" Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời "xì xầm": "Ta là bánh ban sự sống". Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà người ta nại ra để chống lại Ngài: "Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại ai ăn bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn đời". Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm... bánh mà Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống... Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và thực tế: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài... ai ăn thịt Ta, và uống máu Ta... thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của sống... ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...". Không có lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế, Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã hết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum. Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được dặt vào tay chúng ta không một lời giải thích nào. "Cao cả thay nhầu nhiệm đức tin".
3) "Hai bàn Tiệc" (J.Perron, trong "Đọc Kinh Thánh" số 52, trang 139-140).
Nếu tách rời những câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải để mở ra một nhân quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng. Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ nói đến người "tin vào", phần hai nói đến người "tin hiệp-thông", nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không thể nói đến "người hiệp thông" mà trước hết người ấy không phải là kẻ tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lê ma thuật. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là "bí tích đức tin" (sacra men ta fidei). Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ bí tích và hướng về đó" (A.Feuillet). Sự tình bày về Thánh Thể này cũng mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của chúng ta - cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến "hai bàn tiện trong Giáo Hội: "Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc thánh". Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào cải cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề "bánh ban sự sống".

21. Chú giải của Noel Quesson
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ năm Tuần Thánh. Nhưng sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về "bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời"...
Theo một văn phong điểm hình của thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ –chìa khoá: ăn (8 lần); uống (4 lần); thịt (5 lần); máu (4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút vào giọng nói có nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống"
Bánh? Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa trung hải, "bánh" (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự sống. Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng ta được phóng lên trên những từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực nuôi sống. Hơn thế nữa Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống. Và đó là bánh hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn Thánh Thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sở thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì?
"Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Có nhiều trình độ sống khác nhau. Pascal đã nói đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của xác phàm, những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện; "gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu nhiên". (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: "Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu, người ta thấy mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến "đời sống thánh thiêng, đời sống muôn đời" như Người nói.
"Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống".
Những thánh sử khác dùng một từ khác: "Này là mình Thầy". Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã sử dụng chữ "thịt" được dịch ra tiếng Việt là 'người phàm'. "Và Ngôi Lời đã trở thành người phàm" (Ga 1,14). "Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm" (1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi là thịt, xác thịt; mà là toàn bộ "hữu thể sống", là ngôi Vị trọn vẹn "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi". Khi nói về "thịt tôi đây", như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người. Người phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên "điên rồ!" Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình".
Không nao núng. Đức Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc này, Người chỉ nói "ăn" thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải "uống" máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ "máu" chuyển tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là "thân thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển của Thánh Phaolô: "Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình thể nấy... Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí..." (l Cô-rin-tô 15,37-42).
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết".
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ "phagein", "ăn" mà ngài đã dùng cho đến lúc này... bằng từ "trôgei" mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là "nhai"! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua, con cái Israel được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật; nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân thể.
"Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống".
Từ "thật" được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát vọng sự viên mãn. Điều mà con người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sự dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy".
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho:..Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Một trong những lời tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
"Nhai thịt"; "uống máu"; khi Gioan viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân biệt: "Này là Mình Thầy bị nộp" "Này là Máu Thầy đổ ra"
Thịt... Máu... Làm thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh lễ đưa chúng ta về Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
Và đó là "ở lại" trong Đức Giêsu.
Và đó là "sự sống" theo Đức Giêsu: sự sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và một cách cụ thể của mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có ý nghĩa là gì.
"Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy".
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống. Tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với Người?
"Đây là bánh từ trời xuống không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng. Chỉ thế thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời. Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói khát Thiên Chúa không? Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na đi làm dịu cơn đói của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
Sưu tầm

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét

PHỤNG VỤ »»

KT - GIÁO LÝ »»

GIẢNG LỄ CHÚA NHẬT »»

SUY NIỆM »»

ĐỨC MẸ MARIA »»

CÁC THÁNH »»

GIÁO HỘI HOÀN CẦU »»

GIÁO HỘI VIỆT NAM »»

GIÁO PHẬN VINH »»

GIÁO HẠT – GIÁO XỨ »»

VĂN KIỆN TÒA THÁNH »»

VĂN THƯ GIÁO PHẬN »»

Note Đóng lại

Suy niệm Mùa Chay : BẠN MUỐN ĂN CHAY ?

TIN TỨC