CHÚA
NHẬT V THƯỜNG NIÊN, NĂM B
Lời Chúa : G 7,1-4.6-7 ; 1Cr
9,16-19.22-23 ; Mc 1,29-39
"Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó."
Hôm nay, Chúa
cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi
chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa
sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ
rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta.
Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm
cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ
cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của
chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi...
18 bài Suy niệm,
Giảng lễ và Chú giải Lời Chúa
MỤC LỤC
1. Cứu vớt con người
2. Đi gieo Tin Mừng – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
3. Chiều và sáng
4. Ngôn ngữ của con tim – Jean Ralté
5. Không có nghỉ ngơi cho việc tốt
6. Lương y từ mẫu.
7. Chúa Giêsu, người Công Giáo đầu tiên.
8. Đau khổ
9. Cách đáp ứng
10. Dành thì giờ
11. Thăm viếng
12. Tình thương
13. Suy niệm của JKN
14. Con đã viếng thăm Ta - Athur Tonne
15. "Người đến gần cầm tay nâng bà
dậy".
16. Chú giải của Noel Quesson
17. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
18. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Cứu vớt con người
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho
chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy,
Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê.
Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi
cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ
vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến
với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng
lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật
bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế
mà Ngài đã phán với các môn đệ : Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn
rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi
gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu
những đớn đau cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa
dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương ; biết
bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý
thức bổn phận chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa
xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai,
các tông đồ của mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả
những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt,
huống nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là
một kho tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải
cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói : Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì
có ích lợi gì ?
Ringhoff
là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp
đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có
Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ
thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được
tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta
suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả
và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt
đẹp hơn biết chừng nào ? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng
đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta làm được những gì để xoa
dịu những đớn đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì
để góp phần vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng
Chúa.
2. Đi gieo Tin Mừng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày
làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu
đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ
dẫn thứ nhất : Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và
giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống
người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố.
Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi
đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người.
Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ
dẫn thứ hai : Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính
là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều
đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị
sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa
có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà
nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất
thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận
giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ
chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh
và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ
dẫn thứ ba : Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị
ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có
thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người.
Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải
phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể
vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước
Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi
đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ
dẫn thứ tư : Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ
cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm
để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng
biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa
Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt
cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức
Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin
mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày
Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện.
Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến
thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình
bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời
sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có
thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
Câu
hỏi gợi ý :
1-
Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa
Giêsu làm trong một ngày.
2-
Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin
Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp ?
3- Lời
nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống
đạo của bạn.
3. Chiều và sáng
(Trích
trong 'Manna' – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm :
Sốt không phải là một bệnh nan y. Nhưng
người bị sốt cao không dậy nổi, chỉ nằm thôi. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến
thăm nhà ông Simon thì bà mẹ vợ ông đang sốt, nằm trên giường. Đức Giêsu đem
niềm vui đến cho gia đình ông. Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng
dậy. Cơn sốt lui ngay khiến bà có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn giản, một cách chữa
bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một
cử chĩ thân ái. Ngài cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Ngài cầm tay đứa
con ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x.
Mc 5,41), như sau này Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu
dậy và cho cậu đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để một người nằm có
thể đứng lên.
Sức sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay
ấy ? Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy ?
Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi
không dậy nổi, cần được Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày
sabát. Người ta đem đến cho Đức Giêsu bao người yếu đau đủ loại. Căn nhà ông
Simon hẹp quá khiến nhiều người phải đứng ngoài. Không rõ bao nhiêu người được
chữa lành chiều tối hôm đó. Nhiều người đã có thể tự về nhà một mình...
Đức Giêsu đụng chạm đến biển khổ của
nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ
và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế giới hôm nay vẫn phải đối đầu với
bệnh tật. Những bệnh nan y như ung thư, tim mạch, sida (aids), siêu vi... Cần
có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu và mệt mỏi, Đức
Giêsu đã thức dậy sớm, khi các môn đệ còn ngủ say. Ngài tìm được một chỗ cầu
nguyện khá kín đáo.
Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Đức
Giêsu.
Ngài cần có thời gian rút lui, sống
riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi
đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan.
Đức Giêsu thấy mình cần được Cha cảm
thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cần gặp
Cha vì Ngài là Con, và vì Ngài được Cha sai.
Ngài sống hết mình cho con người, cho
đám đông, nhưng Ngài cũng say sưa cầu nguyện và hoạt động.
Cầu nguyện đưa Ngài đến với con người,
hoạt động đưa Ngài đến với Cha.
Thành công ở Caphácnaum không làm Ngài
dừng chân.
"Mọi người đang tìm Thầy", mọi
người vẫn cần Thầy.
Nhưng Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng
đang rất cần.
"Hãy đi nơi khác", Tin Mừng
cần được gieo vãi ở mọi nơi. Giữ được tính tự do và cơ động, Đức Giêsu lại lên
đường.
Gợi Ý Chia Sẻ :
Theo ý bạn, thế nào là một đời sống quân
bình ? Cần hội đủ những yếu tố nào để được coi là một đời sống Kitô hữu quân
bình ?
Mẹ Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt
rạng ngời của lòng bác ái, nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo
khổ. Bạn thường làm gì để giúp đỡ những người cùng khốn ở gần nhà bạn ?
Cầu Nguyện :
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích
sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh
lặng để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe và
thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh
lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những
vấp váp của tha nhân,
biết quay đi truớc những
dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh
lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của
người nghèo đói,
để khép lại trước những
mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh
lặng nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa và
đem lại an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây đớn
đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh
lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và
khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng
con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích kỷ,
thù hằn, ghen ghét,
để
yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo
Mẹ Têrêxa Calcutta)
4. Ngôn ngữ của con tim – Jean Ralté
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng càng ngày người ta
càng đi tìm kiếm một cái gì đó, một lời gần gũi mình trong cuộc sống. Không ai
còn thích nghe những diễn từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp cao siêu, như những
đám mây. Chúng ta hết thảy đều tìm kiếm một lời nhanh chóng đưa đến hành động.
Thế giới chúng ta khao khát những gì cụ thể. Đây là một thế giới đòi hỏi có
những người biết làm chứng bằng chính cuộc đời mình trước khi làm chứng bằng lời
nói.
Ngôn ngữ của con tim
Cuộc sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong
chờ của loài người. Ngài không nói ngôn ngữ của những triết gia nay của những
nhà thần học hoặc của các tư tế và ký lục ở thời đại của Ngài. Người con trai
bác thợ mộc nói ngôn ngữ của con tim. Khi Ngài đến với con người, Ngài gặp họ
trong toàn bộ con người của họ, thân xác và tinh thần. Ngài không tách rời giữa
lời nói và hành động. Trước khi đến hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà
ông Simon và Anrê. Ngài vừa mới đến thì người ta nói với Ngài về một người
bệnh. Nhạc mẫu của ông Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói
chuyện với bà thì điều này sẽ an ủi bà chăng ? Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều
hơn thế nữa : Ngài nói với bà bằng ngôn ngữ của con tim. Không một lời, Ngài
đến bên cạnh bà, nắm tay và làm cho bà chỗi dậy. Ngài không cần lời nói. Cử chỉ
của Ngài nói đủ rồi. Ngài chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu
của ông Simon liền phục vụ những người khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho
niềm tri ân đối với việc loan báo Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà
cũng nói ngôn ngữ của Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con tim.
Như một vệt thuốc súng
Và này đây, tin đồn lan khắp cả thành
phố. Có một người đáp ứng được sự mong chờ của những con tim bị bệnh tật, bị
tan vỡ, bị giam cầm. Lời của Thiên Chúa đã trở nên hành động trước mắt loài
người. Vậy nên dân chúng tuôn đến, mỗi người tìm đến một luồng khí mới cho cuộc
đời của mình. Và này đây, trong những phong trào của chúng ta, người ta khám phá
ra hành động của Thiên Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một
nhóm khác nữa... Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ
điệp loan đi như một vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào
Thánh Linh, Chúa ở trong nhóm trẻ của chúng ta, v.v... Nhưng chúng ta lại nghĩ
rằng để nhìn thấy Ngài, phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về "thành
phố" nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì thế giới ?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng
ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này ? Đôi khi chúng ta giống những
người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa
mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa
của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không
thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài
thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta,
làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng
không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng có thể hành động
như nhạc mẫu ông Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để chúng ta giúp
Ngài loan truyền sứ điệp của Ngài cho thế giới, bên ngoài thành phố của chúng
ta. Lúc đó, Chúa không còn đến chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính chúng ta trở
thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các nhóm của chúng ta không còn là những nhóm
khép kín, nhưng là những điểm chiếu tỏa, từ đó phát xuất đời sống đức tin để
mang Tin Mừng đến những làng mạc lân cận.
Đối với chúng ta là những Kitô hữu,
những tín hữu. Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ loan báo cho loài người Tin Mừng mà
Ngài đã để lại cho chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta làm việc này theo cách của
Ngài, bằng lời nói và bằng hành động, nói ngôn ngữ của con tim chứ không phải
ngôn ngữ của sự khôn ngoan con người. Chính với những anh em đang đau khổ của
chúng ta mà Ngài sai chúng ta đến để nhân danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp
họ đứng lên. Bây giờ phận sự của chúng ta là trở thành tôi tớ mọi người để cứu
được nhiều người. Amen.
5. Không có nghỉ ngơi
cho việc tốt
(Trích
trong 'Mở Ra Những Kho Tàng')
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui
cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà
phê bình đã quan sát và nhận xét rằng : "Đằng
sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên", có
lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn
Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ
một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất
quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon,
đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói
với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành
động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn
toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ
của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi,
nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức
tranh châm biếm người đàn bà được tiền định này, "phụ nữ trong vị trí xã
hội thời bấy giờ" là để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương
của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình
trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa
Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn
gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những
người đau bệnh và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng
của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ
của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng
để cầu nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những
người khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó
của Ngài không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi
Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ
thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố :
"Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa". Chúa Giêsu đã đi đến
những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý
thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc
rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài viết : "Tôi đã bị thúc đẩy
và không có một chọn lựa nào khác". Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm
tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi
ngài nhắc nhở Corintô : "Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách nhưng không".
Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô thì việc phục vụ
đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem không phải là vô
nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng đại tinh thần vô vị
lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của ngài và mẹ vợ của
Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là gì ? Chúng ta có
thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn kêu gọi trong đời
sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh
Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta, có một sự xếp đặt rộng
rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng
ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi mà chúng ta thực
hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân,
những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục, một tu sĩ, những gì chúng
ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ
nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công
việc tốt, những người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và
sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh
thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
6.
Lương y từ mẫu
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Anh
chị em thân mến,
Không ai trong chúng ta đã không ít là
một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân
điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của
con người... Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng.
Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải
đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm
mang tên ông, là một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra
hoang mang và vô vọng : "Xin Chúa nhớ cho : đời con chỉ là hơi thở, mắt
con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ".
Thật vậy, "đời người là một khổ
dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê". Tuy thế, tuyệt đối ông không bao
giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp
không tài nào hiểu được : Tại sao người hiền đức lại phải đau khổ ? Đối với
ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa,
hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau
khổ của con người ?
Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng
về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và
chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon
đang bị sốt nằm trên giường. "Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ
dậy...". Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần
chiến đấu và chiến thắng đau khổ : Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người
tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ
khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì,
người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm "cái phải
làm" để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.
Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông
Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà "chỗi dậy", Đức Giêsu như
hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt
Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa tích cực : Đau khổ dứt khoát
không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự
sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt
ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi
trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian
không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu
độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những
chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên
Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục
Sinh, người ta mới nhận ra rằng : còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu
Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân
xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong
đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong
vinh quang và sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu : bận
tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi
người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện
diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề
chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa
anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài
người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng : Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm
bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng
tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con
người, để ốm đau không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ.
Khi con người được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm
thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy
Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn
sáng tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận
tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư
về "Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo" (1984) đã nói :
"Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con đường đau khổ",
và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường đó. Ngài trích
dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có
mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không
được "dửng dưng" bỏ qua, nhưng phải "dừng lại" bên kẻ đau
khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của
người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này
là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay
hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào" (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã
luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh
hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ
bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội
ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều
giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những
người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng lão... Như vậy, sự quan tâm của
Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã
hội hôm nay của chúng ta.
Anh
chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến,
ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một
cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi
chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì.
Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể
làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất
có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc
lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một
nụ cười... Ngay cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu
nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó,
chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống
động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.
7. Chúa Giêsu, người
Công Giáo đầu tiên
(Trích
trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest.)
Thánh sử Marcô trình bày cùng chúng ta
Chúa Giêsu đang thi hành chức vụ như : loan báo Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật,
trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm nay nhấn mạnh cho ta thấy
Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào cuộc đời bình thường của con người đến thế nào.
Người mới giảng dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội họp xong Người lại mau mắn
theo Phêrô và Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện không hay trong nhà mình,
song điều đó cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô.
Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi chiều, hẳn là vào lúc mà ngày
Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân được mang tới. Người biểu
dương quyền năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy lui bệnh tật và xua đuổi tà
thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm, nhưng sau khi đã chia sẻ
những thực tế tầm thường ấy của đời sống nhân loại, Chúa đã thức dậy trước bình
minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân mật của Chúa Cha. Người trở về nguồn.
Người không giây phút nào mất liên lạc với Cha Người. Người trở lại cùng với
loài người, với những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha. Người không để bị lôi
cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ của những người ở
Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước của sứ mạng mình.
Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong lúc đợi chờ sai môn
đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu nhỏ, song gợi ý
trong bài này.
1) Tiến lại gần, Người cầm lấy tay bà.
Thánh sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc
mẫu của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra
nỗi quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên
Chúa, Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh
tẩy con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì ? Chúa cầm lấy tay loài
người. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu
việt thi hành vai trò mà Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con
người trong nhân cách riêng và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn,
Thiên Chúa đã nắm lấy tay con người ; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con
Người của Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách
"cầm lấy tay" từng người, bất luận họ ở trình độ lương tâm và kiến
thức nào. Không một con người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không được chính
Đức Kitô chú ý riêng. Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm đoạt được
nhân loại, Người tự cho mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong giây phút
chúng ta đang lâm cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng, chúng ta có
nghĩ tới bàn tay nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ không ?
2) Chúng ta hãy đi đến khắp mọi nơi để
Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa
Giêsu, từ Thiên Chúa mà ra, không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này
hay thực thể nọ. Chức vụ Người thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người
nhiều cảm tình nồng nhiệt. Người ta bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt
Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự tháo gỡ. Tại sao vậy ? Tại vì con người của Chúa
bị hai chiều kích vô biên lôi cuốn. Trước hết là kích thước vô biên của Chúa
Cha, sau là chiều kích vô biên sâu thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá
sở noi gương ấy của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh
thần công giáo. Chúng ta là công giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta
từ chối không để cho trí óc của mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng
nào, dầu cho đó là một nền thần học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu
hạn, nó bị bó buộc suy tư trong lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng
tinh thần công giáo ngăn cản nó khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ
quát trong hành động, khi nào người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là
luôn luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình.
Chúng ta là công giáo trong việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta
biết lo liên kết nó với "nơi khác", tức là đời sống của toàn Giáo
Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự hướng lòng mình, vừa lên với Thiên
Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô biên, chính là đức ái thần linh vậy.
8. Đau khổ
Cho đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi
mãi là một vấn đề nan giải trong số kiếp của con người. Thực vậy, tại sao chúng
ta lại đau khổ ? Phải chăng đau khổ là một hình phạt do tội lỗi của chúng ta...
Nếu vậy thì tại sao những người công chính cũng gặp phải nhiều khổ đau ? Hay là
Thiên Chúa đã bất công khi cư xử với chúng ta ?
Từ câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút
ra được một bài học đức tin, đó là trong những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng
vội kêu trách Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho
con người phải khổ, phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là do con người gây ra cho
nhau, vì thiếu yêu thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng với ông Gióp, là người tín hữu,
chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với Thiên Chúa trong những giờ phút đen
tối, cũng như phải sống Tin Mừng thế nào trong mối liên hệ với những người đau
khổ.
Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân
phận con người, nhưng đồng thời lại là cơ hội để con người đến với nhau một
cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin
rằng Chúa yêu thương mọi người, cho nên không thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật
là hình phạt của tội lỗi.
Một quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa
sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống đạo đức một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho
những khổ đau xảy ra, cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập
công. Cách thức suy nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu
chữa những kẻ bất hạnh. Mọi thái độ cam chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở
đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân
loại bằng một thái độ tôn giáo hoàn toàn trái ngược lại với sự cam phận. Thực vậy,
thấy bà mẹ vợ của Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và
dân chúng đưa những kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái
độ của Ngài thật là cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn giáo.
Vì tin vào Chúa của tình thương mà phải
ra tay cứu chữa những kẻ đau yếu tật nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm
chứng một cách đáng tin rằng quả thật Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng
con người để cứu chữa con người. Bởi vì khi con người được yêu thương và giúp
đỡ, thì dù có bệnh tật và khổ đau, thì vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau bất hạnh của người
khác, chúng ta đã có thái độ như thế nào ? Cảm thông và giúp đỡ hay đắp tai
ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
9. Cách đáp ứng
Vấn nạn về nỗi đau khổ của nhân loại,
đặc biệt là nỗi đau khổ của người công chính, là một vấn nạn lớn trong Kinh
Thánh qua các thời kỳ. Đây là một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt. Gióp là một
người tốt, tuy nhiên, ông vẫn phải chịu đựng những thảm cảnh khủng khiếp. Hậu
quả là ông có một cái nhìn ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi
đau khổ vẫn còn là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều người có thể có cùng một quan điểm với Gióp.
Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đau khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau
yếu, bất công, áp bức, thảm cảnh... Trong thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là
một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa, vì tội lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đối với vấn
nạn về nỗi đau khổ là gì ? Người không chấp nhận quan điểm rằng đau khổ là một
sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm điều ác. Thiên Chúa luôn
muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng
trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác gì một câu trả lời đối với câu
hỏi "tại sao có đau khổ ?".
Phản ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta
nhận thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận thấy đám đông những
người bị đau yếu về thể xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu
đã tự hiến thân mình cho mỗi người, chữa lành cho từng người một. Người không
tự cô lập khỏi đau khổ của nhân loại. Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy
cảm, trước những người bị thương tích và đau yếu.
Nỗi
đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị trước nỗi đau khổ. Người cũng không
giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường làm. Người không thích nhìn thấy con
người đau khổ. Đau khổ là một trong những sự dữ mà Người đến để kháng cự lại.
Người có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, và mang lại điều tốt lành
cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng... đã
ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội
cho Đức Giêsu – một cơ hội để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân
cho kẻ bị đau yếu, Người mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên
Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân loại.
Nỗi đau khổ của những người khác cũng là
một cơ hội cho chúng ta nữa. Chúng ta không có khả năng chữa lành, nhưng chúng
ta luôn có khả năng chăm sóc người khác. Và chăm sóc chính là một công việc có
tác dụng chữa lành. Chỉ cần hiện diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó
rất có giá trị rồi. Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có
nghĩa thay vì giải tỏa được nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị
chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng ta đến với những người đau khổ với
đôi bàn tay trống rỗng. Chúng ta có thể làm được gì cho họ ? Chúng ta có thể sử
dụng đôi bàn tay trống rỗng đó, để an ủi họ. Những người đau khổ mong mỏi rằng
chúng ta không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ vững lập trường đứng dưới chân
thánh giá, giống như Đức Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó
mà thôi – mà trong một số chừng mực nào đó, đã là gay go lắm rồi. Điều duy nhất
mà người đau khổ khát khao, chính là thông truyền cho họ sức mạnh của sự ấm áp
tình người. Một người vẫn có thể được lành mạnh, mặc dù không hề được chữa
lành.
Còn đối với nỗi đau khổ của riêng chúng
ta thì sao ? Đau khổ là một yếu tố không tránh khỏi của tình trạng nhân loại,
mặc dù con đường đau khổ là một con đường chật hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm
an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con
đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng. Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường
đau khổ, thì nó không còn giống như trước nữa. Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu
tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta rằng mặc dù con đường này dẫn tới đồi
Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó, đối với
người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành một cơ hội để chia sẻ cuộc thương khó của
Đức Kitô, trong niềm hy vọng được chia sẻ trong vinh quang Phục sinh của Người.
10. Dành thì giờ
Lần
kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi
ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi :
"Anh đang đi đâu đấy ?"
Người
đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua "Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa
ấy".
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho
người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có
tự do ; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa
hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh
nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống
hay ho gì.
Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công
việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt
động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể
người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì
những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản
thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả.
Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và
tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người
vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin
Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những
kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều
đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa
bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng "Sáng sớm, lúc trời
còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở
đó". Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.
Nơi hoang vắng làm được gì cho Người ?
Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người
tiếp tục tập trung. Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người
duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối
tương quan với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của
Người.
Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có
được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì.
Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi
bên cạnh lò lửa nồng ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành,
quả thật rất khó khăn. Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm
thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu
hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc. Họ cho rằng
giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người đó. Họ không biết cách
đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị
nông cạn và hời hợt. Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh
mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi
sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của
mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng nhất để yêu mến
Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm
đến Thiên Chúa mà thôi. Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến
Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở
thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh. Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể
có tác dụng. Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi
phải tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể
dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành
động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình
trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công
việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt
động và chiêm niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng
điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời
gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan
tâm đến cả hai lối sống trên.
11. Thăm viếng
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng
bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy : Nhiều lúc, mình chỉ cần
ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến
chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa được những tâm
sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống. Thì ra điều họ
cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin Mừng sáng hôm nay : Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân, với những
chứng bệnh khác nhau. Sở dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa
quyền năng. Còn với chúng ta thì sao ?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ,
không thể cứu chữa họ. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của
Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách
thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực
hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về
ngày phán xét, Ngài phán với những người bên hữu :
- Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được
sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi
Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi ta
đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm. Vì khi các ngươi làm những việc
ấy cho một trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta
vậy.
Trong Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế
:
- Đừng chậm trễ trong việc thăm viếng
người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta
đều có thể xoa dịu những đớn đau tinh thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì
chúng ta làm phải những gì cho các bệnh nhân ? Tôi xin thưa :
- Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một
thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi
hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng
ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ
một tin vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần
và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước
để biết mình sẽ nói những gì và sẽ nói như thế nào ? Ngoài ra chúng ta còn có
thể mang theo những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân
phần nào trong việc bình phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng, chúng ta cũng cần
phải tế nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở thích hay nhu cầu của bệnh nhân.
Những món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là những món quà quý giá. Ngoài
ra, một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất
nhiều.
Trong phạm vi và khả năng của mình, hãy
quan tâm giúp đỡ những người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm.
12. Tình thương
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc
bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc
khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ
ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào : Ngài có phải là một nhà chuyên
môn làm phép lạ không ? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của
dân tộc Do Thái ? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết
người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm
để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại
trong bài Tin Mừng : Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông
Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi
hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa
của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có
quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có
quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như
một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa
chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là
Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là
chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của
Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì ? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì
khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường
lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô
và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ
vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ
làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính
là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa
lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân
loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể
chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên
hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn : nơi đâu
Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm
thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại
sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật,
điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý
giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta
đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời
cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người
kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở
nhà thờ Đức Bà Paris như sau : "Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào
bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt
và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối
im lặng trong phòng, tôi hỏi : "Chị quỳ làm gì thế ?", chị trả lời :
"Tôi cầu nguyện cho ông". Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi
bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người
chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình
người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp
Chúa".
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một
người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng
như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc,
yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như
đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy ? Vì sao ông có
thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết ? Ông trả lời :
"Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh". Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh
nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa
nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối,
ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ
thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở
về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người
nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh
và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ
Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho
các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy
đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày
lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng
tin... chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi
gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi
người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm
cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì
thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta
hãy đem tình thương đến cho họ.
13. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý :
- Có phải Đức Giêsu đến trần gian để cứu chữa những
người bệnh hoạn, tật nguyền, quỷ ám không ? Sứ mạng của Ngài là gì ? Tại
sao Ngài làm những việc ấy ?
- Bạn có nghĩ rằng : nếu mình mà làm được phép lạ
như Đức Giêsu, mình cũng sẽ chữa bệnh, trừ quỉ... và đi tới đâu cũng sẽ
thi ân giáng phúc tới đó y như Ngài vậy ? hiện nay mình chỉ kém Ngài vì
không có bản tính Thiên Chúa thôi ?
- Theo bạn thì tình thương làm nên
phép lạ, hay phép lạ làm nên tình thương ? Nói cụ thể hơn, muốn giúp
người, điều quan trọng nhất là có tình thương hay có tài năng ? Tình
thương làm nên tài năng, hay tài năng làm nên tình thương ?
Suy tư gợi ý :
1.
Dù quan tâm hàng đầu là loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn cứu giúp mọi người
theo sự thúc đẩy của tình thương
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu
chữa các bệnh tật, các chứng quỷ ám. Trong cuộc đời công khai, Ngài đã từng
chữa lành biết bao nhiêu con bệnh thuộc đủ mọi loại, biết bao người bị quỷ ám,
và làm một số người chết sống lại, v.v... Điều đó khiến nhiều người có cảm
tưởng rằng Ngài là một chuyên gia chữa bệnh, chữa quỷ ám. Thật ra không phải
như vậy ! Ngài đến thế gian chủ yếu không phải để làm những việc ấy, mà để cứu
chuộc toàn nhân loại và loan báo Tin Mừng cho họ. Tuy nhiên, khi thực hiện sứ
mạng ấy, Ngài đã phải đối diện với biết bao nhiêu cảnh đau thương của con
người, về tinh thần cũng như thể chất. Tình thương chan chứa của Ngài đối với
con người khiến Ngài biết bao lần "chạnh lòng thương" và ra tay cứu
giúp (x. Mt 9,36 ; 14,14 ; 15,32 ; Mc 1,41 ; Lc 7,13). Sách Công vụ Tông đồ còn
cho biết : "Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi
kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người " (Cv 10,38).
Điều chúng ta cần noi gương Ngài không
phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì, mà chính là khả năng "chạnh lòng
thương" trước những đau khổ của tha nhân. Khi đã biết "chạnh lòng
thương", thì tình thương sẽ thúc đẩy và dần dần tạo cho ta khả năng hành
động phù hợp với sự đòi hỏi của tình thương. Thiết tưởng tất cả mọi Ki-tô hữu
muốn thật sự là Ki-tô hữu đều phải biết "chạnh lòng thương", biết
nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những
người chung quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của
tình thương. Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết
Thiên Chúa đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta. Ai không nhạy cảm như
thế là dấu chứng tỏ họ không có Thiên Chúa - là Tình Thương - ở nơi mình :
"Ai không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa" (1Ga
3,10 ; x. 3,17 ; 4,8).
2.
Vì yêu thương và dấn thân hết mình mà Ngài làm nên những phép lạ
Có phải vì Ngài làm phép lạ dễ dàng, nên
Ngài tỏ tình thương với mọi người cũng dễ dàng chăng ?
Nếu ít hiểu biết về Đức Giêsu, chúng ta
có thể nghĩ rằng : Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền năng làm phép lạ, có
khả năng chữa bệnh, đuổi quỷ, nên Ngài tha hồ mà "thi ân giáng phúc"
ở bất cứ nơi nào Ngài đến. Đối với Ngài, việc "thi ân giáng phúc" quả
là quá dễ dàng, Ngài có mất mát hay thiệt thòi gì đâu ? Còn ta, hễ giúp đỡ ai,
làm cho ai hạnh phúc hơn là ta phải mất mát, hy sinh, phải chịu thiệt thòi,
phải chấp nhận đau khổ. Nếu Ngài cũng bị hạn chế như ta, làm sao Ngài có thể
"thi ân giáng phúc" không cần tính toán như thế được ? Nếu ta cũng
làm được phép lạ như Ngài, ta cũng sẽ "thi ân giáng phúc" cho mọi
người đâu kém gì Ngài !
Hay vì Ngài yêu thương tha nhân hết
mình, nên Ngài mới có nhiều khả năng cứu giúp người khác như vậy ?
Nghĩ như thế quả cũng có lý ! Nhưng theo
thiển ý tôi, người viết bài này, nghĩ ngược lại có thể có lý hơn. Nghĩa là :
không phải vì Ngài có khả năng làm phép lạ nên Ngài tỏ tình yêu thương một cách
dễ dàng ; mà ngược lại, chính vì Ngài yêu thương hết mình, và cũng hết mình
muốn ra tay cứu giúp người khác, nên Ngài mới làm được những phép lạ như thế.
Cách nghĩ sau có vẻ hợp với Kinh Thánh hơn.
Đức Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, có những
giới hạn của Ngài
Rất nhiều người nghĩ : Đức Giêsu chính
là Thiên Chúa, mà đã là Thiên Chúa thì ắt Ngài phải biết hết, làm được hết, có
đầy đủ mọi nhân đức, ở trong tình trạng hoàn hảo, chẳng cần tập tành khổ luyện
gì hết. Nghĩ như thế không phải là không có lý. Nhưng rất có thể họ quên rằng
Đức Giêsu là một "Thiên Chúa Nhập Thể", nghĩa là một
"Thiên-Chúa-làm-người". Khi nhập thể thì Thiên Chúa vô hạn và tuyệt
đối đã mặc lấy thân phận hữu hạn và tương đối của con người (x. Pl 2,6-9).
Chẳng hạn, là Thiên Chúa vô hạn, Ngài có thể hiện diện cùng một lúc ở khắp nơi,
nhưng cũng chính Thiên Chúa ấy, khi nhập thể, mặc lấy thân phận hữu hạn của con
người, thì Ngài không thể ở khắp nơi cùng một lúc như thế. Thiên Chúa và Đức
Giêsu chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa ấy đã mặc lấy hai cách
hiện hữu khác nhau : một đằng là thần linh, vô hạn, bất biến, tuyệt đối ; một
đằng là con người, hữu hạn, vô thường và tương đối... Nếu không như thế thì đâu
còn là nhập thể nữa !
Kinh
Thánh nói về Đức Giêsu
Thánh Phao-lô đã nói về sự giới hạn và
yếu đuối của Đức Giêsu như sau : Ngài "mang thân phận yếu hèn" (2Cr
13,4 ; x. 1Tm 3,16) ; "Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương
diện" (Dt 2,17) ; "Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng
như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). Thiên Chúa đã "sai chính Con
mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng
ta" (Rm 8,3b). Ngài phải chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11) và chắc chắn
cũng phải chiến đấu để thắng nó. Trong việc Ngài cảm thấy sợ hãi đến đổ mồ hôi
máu khi nghĩ đến cuộc tử nạn sắp tới, ta thấy ngay thân phận yếu hèn của một
con người ở nơi Ngài, và thấy Ngài cũng phải chiến đấu rất cam go mới thắng
vượt được bản thân yếu đuối mà vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41-44).
Khi Ngài còn nhỏ, rất có thể Mẹ Maria
cũng phải tập cho Ngài ăn, nói, đi đứng và dạy cho Ngài biết đọc, viết, tính
toán như bao người mẹ khác tập cho con mình. Ngài cũng phải cố gắng vất vả khi
phải học cho thuộc những bài học, khi làm những bài luyện tập... Ngài cũng phải
học thánh Giu-se mới biết làm thợ mộc, và khi làm việc cũng cảm thấy mệt mỏi và
vất vả. Những gì Ngài có được - như sự hiểu biết, các nhân đức, sự hoàn hảo -
không phải sẵn có nơi Ngài do bản tính thần linh vô hạn của Ngài, mà theo thánh
Phao-lô, Ngài cũng phải học, phải luyện tập với bao gian lao cực khổ không khác
gì chúng ta : "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ
mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 5,8) ; "Thiên Chúa (...) đã
làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị
lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ" (Dt 2,10). Cũng thế,
Ngài có được những giá trị cao quý ấy phần nào do quyết tâm thực hiện bằng ý
chí yếu đuối của con người ở nơi Ngài.
Những phép lạ Ngài làm rất có thể là do
tình thương cao độ của Ngài
Trong chiều hướng ấy, ta cũng có thể
nghĩ rằng những phép lạ Ngài làm được để cứu giúp người khác một phần đến từ
Thiên Chúa, nhưng một phần khác là do tình yêu cao độ và sự dấn thân hết mình
của Ngài cho tha nhân. Điều này phù hợp với kinh nghiệm bình thường của con
người : chẳng hạn biết bao người mẹ bất tài mà chỉ vì tình thương bao la đối
với con mà làm được những chuyện phi thường ; những người có tình thương bao la
rộng rãi thường phát triển khả năng nhiều hơn những người khác.
3.
Đừng sợ mình không có khả năng, hãy sợ mình không đủ tình thương
Vậy thấy Đức Giêsu cứu giúp biết bao
người, chúng ta đừng vội cho rằng : nếu tôi có tài năng như Ngài, tôi cũng sẽ
cứu giúp được nhiều người như Ngài. Nghĩ như thế hóa ra Ngài chẳng hơn gì chúng
ta ! hóa ra nếu có ai cứu giúp ai thì do người cứu giúp ấy có khả năng cứu giúp
mà thôi ! Nghĩ như thế, đời sống tâm linh và tình thương của chúng ta không bao
giờ phát triển được ! Muốn làm được những việc như Đức Giêsu, thiết tưởng điều
quan trọng nhất là chúng ta phải có tình thương thật sự và cao độ như Ngài. Khi
đã có tình thương rộng lớn, bao trùm, tình thương ấy sẽ thúc đẩy chúng ta hành
động, thúc đẩy chúng ta luyện tập để có nhiều khả năng cứu giúp người khác. Tại
sao ta có thể làm được biết bao chuyện cho cha mẹ, vợ con, anh em ta, mà lại
không thể làm như vậy cho người khác ? Chính vì ta có rất nhiều tình thương đối
với người thân, nhưng lại không đủ tình thương đối với người khác. Vậy, đừng sợ
mình không có khả năng cứu giúp người khác, hãy sợ rằng mình không có đủ tình
thương đối với họ.
Cầu Nguyện :
Lạy
Cha, con cảm thấy con chưa hữu ích lắm cho tha nhân chung quanh con không phải
vì con không có tài năng cho bằng vì con chưa đủ tình thương đối với họ. Biết
bao người ít tài năng hơn con, nhưng họ lại hữu ích cho tha nhân hơn con, chính
vì họ đã yêu thương nhiều hơn con. Vì tình yêu có khả năng khiến người ta làm
được tất cả. Điều con thiếu hơn cả chính là tình yêu, xin Cha hãy ban cho con.
14. Con đã viếng thăm Ta - Athur Tonne
Vị
linh mục dừng lại nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi
linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước mắt kêu lên : "Ôi thưa cha, con vừa được
biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm sự
; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích
lệ ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà
ngừng một lát rồi kêu lên : "Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã
giải quyết cho con mọi vấn đề". Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết
vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra : Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng : Chúa
Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, những chứng bệnh khác nhau. Người làm được vì Người
là Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể làm đuợc như Chúa ? Chúng ta không thể
làm phép lạ, không thể chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử
chỉ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng ta có thể thăm người bệnh, như vị
linh mục trong câu chuyện, chúng ta cảm thấy bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau
đớn, khổ tâm, thiếu thốn mà chúng ta không thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai
viếng thăm người bệnh. "Ta đau các con đã viếng thăm... Hãy đến. "
Ngay Cựu ước cũng thúc dục chúng ta : "Đừng chậm trễ thăm người bệnh vì
nhờ thế con được quí mến." Thăm viếng người bệnh một cách thân tình, vui
vẻ tại nhà hay trong bệnh viện ; có thể xoa dịu tinh thần, trợ lực thể xác.
Chúng ta có thể làm gì cho người bệnh ; lắng nghe khi họ cần biểu lộ tâm sự.
Thông cảm khi lắng nghe là một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển, một người
đến thăm biết thông cảm khi họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng mình. Họ biết
chia sẻ niềm đau xót dẫu rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem đến một tin vui một
sự kiện xây dựng hoặc nụ cười, một câu chuyện trên Tivi hay báo chí. Cắt một
bài vắn trong báo hay tạp chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải
chuẩn bị trước, bạn sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp
bệnh nhân mạnh tinh thần. Khi chọn quà bạn cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để
món quà thích hợp với tư cách, khung cảnh, nghề nghiệp và sở thích của bệnh
nhân. Món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông : "Tôi sẽ cầu
nguyện cho." Tốt hơn nên nói ; "Tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong
Thánh lễ hôm nay... "Sáng mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị)". Đừng
nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm, nội qui của bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết
quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô trong giới hạn của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
15. "Người đến
gần cầm tay nâng bà dậy"
(Suy
niệm của Noel Quesson)
Bác
sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn
trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại
quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi
gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi
được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác
thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình
phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành : "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã
lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến
giường bà mẹ vợ ông Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà
chỗi dậy lo việc phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa
Giêsu đã thực hiện bí tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và
cử hành trước. Cử hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một
lời của Chúa hay lời cầu nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích,
đem lại ơn ích cho người lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người
tín hữu trong cơn đau yếu, để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong
thử thách cả và thể xác lẫn tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới
những bệnh nhân, Chúa cảm thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm
hồn tội tình con người "bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và
tăng sức con người đau yếu bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua
cái chết, đi vào vinh quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân
xác và tinh thần. Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện
đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà
chỗi dậy và phục vụ mọi người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không
làm việc được, không phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải
phục vụ anh em, làm đầy tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả
năng phục vụ, Chúa đã ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta
không mang bệnh nạn, nhưng mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu
tinh thần phục vụ, thiếu tinh thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin
Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh
do tà thần được phép Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy
Chúa, xin Chúa xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm hồn và thân xác
chúng con, cho chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt thành phục vụ
anh chị em chúng con.
16. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về
"Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum". Đó là ngày đầu tiên trong
đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu : ta thấy Người giảng dạy,
giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó
cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.
Vừa
ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có
ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.
Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người
ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức
Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh
em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng
với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở
đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong
mọi lãnh vực của cuộc sống : Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư
riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng
con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.
Lúc
đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong
Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật
mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên,
dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và
tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh
kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu" biểu lộ sự yếu đuối của thân
phận con người vẫn còn luôn như trước : đó là con người có thể chịu những rủi
ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những
chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên ? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý
muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng
cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn
trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta
sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang
"dấu" của tử thần : đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn
và ta không thể tránh được.
Họ
liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ
dậy.
Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh
trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm
nhìn Đức Giêsu bước vào nhà . Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày
với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta.
Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết
với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử chỉ của Đức Kitô". Một bài thánh
ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã "làm những việc kỳ
diệu". Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó.
Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran
vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang
nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn sốt". Khi rước lễ, con
cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con .
Người
đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp,
cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ
"ègeire", có nghĩa là "làm cho sống lại" . Ong cũng dùng
một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại : "Hãy chỗi
dậy !" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6).
Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một "dấu
chỉ" theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên
Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên
Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4) Ngay trong
thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh
nhân . Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước
cho "Thời cánh chung" : chỉ khi đó con người mới được "cứu
độ" thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng
qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống
hiến, đó là đi từ tình trạng "không tin" đến tình trạng
"tin" : kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình
sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để
"phục vụ".
Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn
thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung
tâm" của người bị bệnh... khi họ không "phục vụ" anh em mình.
Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp đãi" Máccô muốn nói với
ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ "phục
vụ" mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là "thí ban mạng sống
mình" : "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là
để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Lạy
Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp
con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ khác" lên
hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ', "hiến dâng mạng
sống" và yêu thương !
Chiều
tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và
trừ rất nhiều quỷ.
Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu
vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của
sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa : do
đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị
đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình
yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.
Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong
tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công
cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn..
Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển "đô thành trần
thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ "chất
độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến
bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh ! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng
một tâm hồn : Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó ! Lạy
Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.
Người
trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là
ai.
Đề tài "Bí mật thiên sai" lại
xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu
không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.
Người buộc mọi người phải giữ im lặng,
không được nói quá sớm Người là "Con Thiên Chúa". Đã có quá nhiều ý
kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để
ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với
một "người chữa bệnh" đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng
Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ
và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có
nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa
không phải là "toàn năng" theo nghĩa chúng ta thường hiểu . . Vì yêu
thương, Chúa đã tự trở thành "hoàn toàn yếu đuối" đối với chúng ta .
. . bởi vì Người là "tình yêu toàn năng". Nếu ông là Con Thiên Chúa,
ông hãy xuống khỏi thập giá đi. . . Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên
Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ ! Đúng vậy Người đã minh chứng
điều đó : Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ
"phục vụ" . . . Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống ! Trong khi
chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng
tiếng.
Lạy
Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy
Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa
trần gian ... "bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài
người" (l Cr 1,25).
Sáng
sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà
cầu nguyện.
Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải
qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều "cốt yếu" sau đây :
đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là "Gặp gỡ Chúa Cha".
Ông
Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người...
Vào sáng sớm ; khi bóng đêm còn mù tối,
trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người
rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng
đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến "một
nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức
Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở "bên cạnh Chúa
Cha", chính là nhân loại đang ở "gặp gỡ Thiên Chúa". Chính trong
khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu Tin Mừng trên đây không phải là một
chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của
"ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người
đang "kêu gọi" ta, nhưng "trong yên lặng" : ý nghĩa của đời
sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật
làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ
nào biết "ẩn mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được
cứu độ.
Lúc
đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này
bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi...
Này
bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra
"tin vui" được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không ?
Khi
gặp Người, họ thưa : "Mọi người đang tìm Thầy đấy"' Người bảo họ :
"Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao
giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng,
lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người
Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy
làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho
công cuộc Phục sinh.
17. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Chữa
bệnh cho nhạc mẫu Phêrô (1,29-31)
Hoạt động thứ hai này của Chúa Giêsu có
thể được xem như một sự kiện "nho nhỏ" mà do tính cách vắn gọn Maccô
đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh này đã được Maccô tháp
vào chuỗi trình thuật mang tựa đề "Cái ngày Chúa Giêsu rao giảng ở
Caphanaum" khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34. Câu
chuyện xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng vụ,
đây là một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ được
phép di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và
Anrê, trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu
sẽ thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại
thật gọn gàng : nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô
không mô tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không
nặng, dầu vậy cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn,
"họ liền nói cho Ngài biết bà đang đau ốm" (c. 30b). Không thấy đề
cập rõ đến người can thiệp cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn
tiến trình của đức tin : Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên
đám bạn hữu Ngài đã xin Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm
một cử chỉ đơn giản là nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa
với các trình thuật thời đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy,
thường dùng sức mạnh của lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự
việc xảy ra hoàn toàn kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ
lập tức hồi phục hoàn toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục
vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài.
Vì thiếu khía cạnh huyền diệu, trình
thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng người thời nay. Để nắm rõ được đây
là hành vi có liên quan đến sứ mệnh "Mêsia" của Chúa Giêsu, chúng ta
phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật được quan niệm như là một
dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch sử Cựu Ước, cơn sốt luôn
được nga hình dung như những một trong những hình phạt Chúa đe sẽ gởi đến cho
đám dân bất tín bất trung của Ngài : "Nếu các ngươi phế bỏ Lề Luật của Ta,
nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra thực hành các huấn
lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây Ta sẽ giáng cho
các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con mắt và nhọc mệt
tâm hồn" (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).
Vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng
gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì thế mà sử gia Luca đã tường thuật
việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như một cuộc trừ quỷ (Lc 4,39). Như
thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu đối với bà cụ này minh họa quyền
năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự Chết. Đây chính là Đấng Mêsia mang
đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến.
Tuy nhiên cần phải đi xa hơn. Nhằm mục
đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của mình, Maccô đã đọc lại biến cố này dưới
nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính cách dùng một công thức diễn đạt của
Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó. Trong tiếng Hy Lạp, động từ trong câu Maccô sử
dụng khi viết : "Ngài đỡ bà ấy dậy" (c.31b) cũng chính là động từ sau
này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu : "Ngài đã chỗi dậy (sống lại)
(16,6)". Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu
không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua
việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như "Đức Kitô và như vị Chúa
Tể" (Cv 2,36) Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội lỗi, lôi họ ra khỏi
cõi chết. Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè xuống được đứng dậy.
Và khi cho thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt đầu phục vụ các vị
khách của bà (x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc các Kitô hữu được mời
gọi "phục vụ" Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín
hữu Ngài khỏi sự dữ để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.
Chúng ta được mời gọi thường xuyên đọc
lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước hết đây là hành vi có tính lịch
sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều kích lịch sử của biến cố
được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan trọng hơn. Chúng ta phải
đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi chép cho cộng đoàn Kitô hữu,
dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ luôn đặt niềm tin
vào vị "Chúa Tể" hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu độ Giáo Hội cũng
như trần gian.
Câu chuyện chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô
đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia muốn tìm kiếm các chi tiết thấy nơi
trình thuật trên một "kỷ niệm tận mắt" của nhân chứng Phêrô. Qua câu
chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai của nhóm Mười Hai (3,16)
lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài của
nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không ? Chúng ta không thể biết
được ; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô (trong 1Cr 9,5) là Phêrô
có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải đáp vấn nạn được nêu ra.
Một
thành công rực rỡ (1,32-34)
Đoạn văn ngắn gọn này được ví như
"bản tóm tắt" các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ khi Ngài khởi đầu sứ
vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại dưới tựa đề
"Cái ngày tại Caphanaum" (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh sự
thành công rực rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh và
trừ tà (c. 32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn đến.
Khi nói rằng "cả thành", Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để
mang lại cho nó trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan
đến dân Do Thái cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là
đám quần chúng bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang
thông thường rất đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến
đủ thứ thầy trị bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp...
Nhờ khả năng điều trị phi thường nên
Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a), chẳng một ai dám nghi ngờ Đức
Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài hấp dẫn, mê hoặc kẻ khác. Một
truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng sở dĩ Chúa Giêsu bị chết treo
là vì "Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê hoặc dân chúng".
Tuy nhiên nếu Maccô ghi nhận rõ ràng
Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh và trừ ta thì ông vẫn cẩn thận cho
thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện ngay giữa sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm phép lạ. Ngài chỉ trưng ra
"các dấu chỉ" cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến qua bản thân Ngài
(1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động chữa bệnh của Chúa
Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi người biết Ngài là
ai (c.34b).
Đây là một lối diễn tả mới mẻ về
"Bí mật Đấng Mêsi" từng được nhiều người lưu tâm. Chúa Giêsu rất muốn
đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài mang đến ơn cứu độ
cho họ.
Tuy nhiên Ngài buộc phải ngăn cấm ma quỷ
không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia của Ngài (1,24). Thực ra, ngay lúc này
đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời, là vô tình khiến dân chúng hiểu lầm
rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang bủa vây họ bằng một cây đũa thần.
Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi "thời sau cùng", đám người đương
thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân "các dấu chỉ và phép lạ"
được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia đặc biệt không
muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài đòi hỏi (x. Các
cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu "Đức Kitô" và
"Con Thiên Chúa" chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng
cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông,
Maccô đã tự gán cho mình bổn phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ
kín về Ngài (1,44 ; 3,12 ; 5,43 ; 7,24b.36 ; 8,30 ; 9,9.33).
Như thế, Maccô mời gọi độc giả tự hỏi về
thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu mà ông chưa đưa ra câu trả lời. Câu
trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ ràng ai nấy đều biết là Đấng Mêsia
đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử nạn (8,29-33). Từ đó, mới lộ ra quy
tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này –mọi "bí mật" về thân thế Chúa Giêsu
chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi nền tảng Maccô đặt ra cho họ
: "Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai ?" và rồi người ta sẽ trả lời ngay :
"Hãy đi theo người dẫn đường...".
Cầu
nguyện và thi hành sứ vụ (1,35-39)
Maccô có khuynh hướng đưa ra các tương
phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của Chúa Giêsu qua việc phục vụ đám
đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh đối chọi về vị đạo sư thèm được
sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa (c.35). Chắc hẳn là sau bao mệt
mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can đảm Chúa Giêsu mới có thể dậy sớm
lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm một chốn cô liêu cầu nguyện. Lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề cập tới (6,46 ; 14 ;35-39) ở mỗi
chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở đây người ta dễ dàng nắm được nội
dung bản văn : Chúa Giêsu không muốn để cho mình bị cuốn trôi bởi cơn sóng của
đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ Ngài đã làm. Ngài cần suy nghĩ về
tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.
Rõ rànglà các môn đệ đi tìm kiếm Chúa
Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ mà việc chữa trị thành công của
Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33). Sự kiện đám quần chúng đang mê
mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức khẩn trương đầy nguy hiểm. Vị
đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa ra một cắt nghĩa lệch lạc nào
về vai trò của Ngài (c. 38).
Nêu ra cho họ điểm trọng yếu là điều tối
quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là then chốt trong sứ mệnh của Ngài.
"Chúng ta hãy đi chỗ khác..." điều này có nghĩa là sứ vụ đòi hỏi phải
"lên đường" đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là phô diễn phép
lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin vui về Ơn Cứu
Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ rao
giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận của Ngài
rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người "Nước Thiên
Chúa đã kề bên họ", phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời xác
nhận cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng : "Vì Thầy đến cốt để làm
việc đó" (c. 38d). Câu nói : "Vì Thầy đến" mang đầy ý nghĩa cao
với. Trong Phúc âm Gioan, để diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau
này sẽ nói rằng "Ngài đến từ Thiên Chúa", đây là một lời xác nhận về
thiên tính của Ngài (Ga 8,42 ; 13,3 ; 16,27-28).
Bản văn đã kết thúc bằng một hành vi
mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận ra Caphanaum chỉ là một điểm tựa
trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng "trong toàn
xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có biên giới phân cách rõ rệt với
các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh đất tuyệt vời để thi hành một
sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa Giêsu rao giảng trước tiên
trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng thường tập trung cầu nguyện và
nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung lời rao giảng bằng các hành vi
trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối thượng của Ngài (1,27). Chương
này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã biết liên kết thật kỳ diệu mọi
đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi người sứ mệnh "Mêsia"
của Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với việc loan báo Tin
Mừng và với các "dấu chỉ" minh xác về thân thế Ngài.
18. Chú giải của Fiches Dominicales
TỪ
HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP MIỀN GALILÊ.
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU NGAY
GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI :
1.
Từ âm thầm trong "nhà"
Ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong
bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng
trưng qua những địa điểm chúng xảy ra : bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong
"nhà của ông Simon" (Phêrô) ; rồi đến "ngoài cửa", nơi
"cả thành xúm lại", sau cùng là "một nơi hoang vắng" ở đó,
trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh
đồng truyền giáo.
Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng
đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến "nhà hai ông Simon và Anrê
". Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày hôm đó,
người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học
gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến "căn nhà mà Đức
Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm
họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí
quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô thuật tiếp : "Lúc đó, bà mẹ
vợ ông Simon đang lên cơn sốt". Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải
nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà
Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung : "nếu các
ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán
quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao
ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ giáng xuống
trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt" (Lv
26, 15-16a).
J . Pótin chú thích thêm : "người
bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của
cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần ; vào sinh hoạt chung
tôn giáo và xã hội" ("Jésus, lhistoire vraie", Centurion, trang
162).
Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu
mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.
Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân
nhân người bệnh : "Lập tức họ nói cho Người biệt tình trạng của bà".
Tiếp đó là cử chỉ chữa lành : "Đức
Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy".
Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của
Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của
ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta : " Đó là điều được ám chỉ một cách kín
đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp, động từ
"đỡ dậy" cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu : "Người
đã chỗi dậy rồi" (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những
Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ
là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc
Phục sinh, Người được suy tôn là "Đức Chúa và Đấng Kitô" (Cv 2,36),
nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi tiếp
tục giải thoát họ khỏi sự chết" ("LEvangile de Marc", Centurion,
trang 33).
Người bệnh bỗng phút chốc được lành
bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ
Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng
bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến
"cầm lấy tay mà đỡ dậy" ; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã
được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình : "Cơn sốt
dứt ngay, và bà phục vụ các ngài". J. Hervieux tiếp tục : "Khi trình
bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của
mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc "phục vụ " Đức Kitô mà mỗi Kitô
hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của
người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó " (Sđd) .
2.
Rồi đến "trước cửa" có "cả thành xúm lại" :
Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái,
đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.
Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm
đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh
hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu "mọi kẻ ốm đau và những ai
bị quỷ ám". Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, "cả thành xúm lại
trước cửa". Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một
nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài :
"Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều
quỷ".
- Người ra lệnh cho chúng không được nói
gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25) :
"Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai".
M.E.Boismard đặt câu hỏi : "Tại sao
lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1 câu 5, khi Đức
Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân ?...Vào thời đó cũng
chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ
của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi anh hùng giải
phóng đến để "khôi phục lại vương quốc Israel" (Cv 1, 6 ; Lc 1,
58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc
khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực
chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những
dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua
mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn
tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng
như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý
do của cái quen gọi là "bí mật Mêsia" ("Jésus, un homme de
Nazareth", Cerf, trang 46-47).
Danh hiệu "Đấng Kitô" và
"Con Thiên Chúa" chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng
của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng
Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.
3...
Và "những nơi khác" phải đến để rao giảng :
Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển
tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp
miền Galilê.
Trái ngược hoàn toàn với công việc bề
bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một
mình trong một nơi thanh vắng".
- Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc
trời còn tối mịt", hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này
sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, "ngày của Chúa". Đức Giêsu cầu
nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x.
Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh
mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha,
cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú
giải, "Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn
ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên
con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa" (Sđd, trang 49).
Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời
cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó "mọi người đang tìm Thầy".
Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người
là : loan báo Tin Mừng. "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xă chung
quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Từ đó, "Người đi khắp miền Galilê,
rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ". Đoạn Tin Mừng chấm dứt
ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc
trưng của Máccô : Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm
thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh
(x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng
trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi
đi đến một nơi khác : "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó". Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau
này cũng được gởi đi lên một "nơi khác như thế ("Người không còn đây
nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê
trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương
soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật,
để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các : "Tin
Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc" (13,10) ("L'evangile se lon
saint Marc", Cerf, trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. " Cầu nguyện và
truyền giáo"
(Mgl.
L.Daloz, trong "Qui dong est-il ?", Desclée de Brouwer, trang 17).
"Cuộc đời của Đức Giêsu luôn xáo
động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra đi để cầu nguyện,
giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi tìm Chúa và quấy
rầy Người : "Mọi người đang tìm Thầy đấy !". Trong cuộc sống luôn bị
xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện. Người cầu nguyện
cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha, trong thinh lặng,
và nói với Chúa Cha. " Thầy phải lo việc của Cha Thầy". Người là
Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi đi rao
giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người. Nhưng
Người đi nơi khác, "đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của sứ vụ
truyền giáo của Người : "Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Mối tương
quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ, lời rao
giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với Cha. Đó
cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ . Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thân
tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người".
2. "Một bài giáo huấn
về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật"
(F.
Deleclos, trong : "Prends ét mang La Parole, "Centurion - Duculot,
trang 137-138).
"Đoạn Tin Mừng kể về phép lạ chữa
lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là "chuyện nhỏ", nó
xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày
Chúa- nhật". Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin, làm
nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ
của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng
cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu
lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl 28,15
và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để phục vụ
bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức của đau
khổ".
3. "Phép lạ chữa lành
như là dụ ngôn về sự sống lại"
(H.
Denis, trong "100 mots pour dire Jésus", Desclée de Brouwer, trang
183).
"Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự
vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành
mạnh".
Câu kinh đọc trước Rước lễ có thể soi
sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa
bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin
Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng
Mêsia được ? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp
thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người
chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không ! Người không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu
con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ Người không bảo :
"Đức Tin đã chữa lành con", nhưng : "Đức Tin đã cứu con".
Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù
khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa
bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một
nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong
Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài Tin
Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng
khác nào đọc thần chú !), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa".
Sưu
tầm
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét